Hôm nay,  

Ngày Lễ Cha

09/06/202116:03:00(Xem: 4534)

 

Tieu Luc Than Phong
Cha và con. (hình Tiểu Lục Thần Phong)

 


Thời gian vẫn không ngừng trôi, hết xuân lại hạ, ngày tháng dần qua như nước chảy mây bay, sóng sau đè sóng trước, từng thế hệ lần lượt nối tiếp nhau. Ba chẳng mấy chốc giờ đã lên nội, ngoại. Tóc ba đã bạc trắng mái đầu, mỏi gối chồn chân… Thương ba nhưng đành chịu thôi, quy luật sinh – lão – bệnh – tử có chừa ai đâu! 

 Xứ mình không có ngày lễ cha, lễ cha xuất phát từ phương tây. Người phương đông vốn nặng tình nhưng thường  hay che giấu cảm xúc, ít biểu lộ. Tình cảm thường ẩn dưới những lời nói, lời hỏi thăm hay những việc làm nào đó, rất hiếm khi nói:” Con thương ba, ba thương con” như kiểu người phương tây. Người phương đông, nhất là những dân tộc chịu ảnh hưởng sâu đậm nền văn hóa Khổng giáo thì vai trò người cha rất lớn, nghiêm khắc và gia trưởng. Người Việt cũng thế, người cha trong gia đình có uy quyền lớn lắm, dân gian ta thường bảo:” Mẹ đánh trăm không bằng cha hăm một” là vậy! Ngôi vị người cha đứng hàng thứ ba trong ba ngôi:” Quân, sư, phụ”, “ Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu”. Ngày nay đã nhạt nhòa, tuy nhiên tính gia trưởng vẫn còn rơi rớt.
 

 Ngày lễ cha lặng lẽ, ít hoa và quà, không xôn xao nhiều sắc thái bằng ngày lễ mẹ, âu cũng là lẽ thường tình. Người đàn ông thì không có nhiều màu mè hoa lá như phụ nữ. Một lẽ khác nữa là vị trí người mẹ trong tâm tư tình cảm người thế gian sâu đậm hơn, gắn bó hơn, gần gũi hơn. Người mẹ manng nặng đẻ đau, bú mớn, chăm sóc… Khi đứa con có việc gì cần thì cũng thường thủ thỉ với mẹ dễ hơn là nói với cha. Người cha có thể ví như cây tùng, cây bách, trượng phu, trụ cột trong gia đình nên càng vững vàng càng ít rườm rà hoa lá, từ đó ngày lễ cha cũng lặng lẽ hơn, ít sắc thái biểu cảm hơn. 

 Nước Việt là nước văn minh nông nghiệp lúa nước. Người Việt sống nặng về tình cảm, cảm tính, tình cảm ràng buộc mọi người với nhau, liên đới lẫn nhau . Trong những mối ràng buộc đó thì tình cha là một tình cảm thiêng liêng cao quý không khác chi tình mẹ con:

 Công cha như núi Thái sơn 

 Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

 Một lòng thờ mẹ kính cha

 Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con

 Bài ca dao này có thể nói là “kinh điển”, “ mực thước” nhất nói về tình nghĩa cha mẹ cũng như bổn phận con cái. Có thể nói hầu hết người Việt ai cũng biết bài ca dao này. Tác giả bái hát:” Công đức sinh thành” cũng đưa nội dung bài ca dao này vào bài hát của mình và bài hát này thường lồng vào các clip đám cưới như để nhắc nhở con cái nhớ về công ơn cha mẹ. Ngày lễ cha, nghe lại bài hát này lòng rưng rưng nhớ cha, nhớ mẹ khôn cùng. Thật sự cha mẹ luôn ở trong tâm khảm của những người con hiếu, bài hát này hay ngày lễ cha, lễ mẹ chỉ là cái duyên để khơi tưởng nhớ thêm. 

 Đời sống muôn mặt, tình cảm muôn màu, cách biểu hiện cũng nhiều sắc thái… tất cả cũng bởi nhân tâm bất đồng, nhân duyên khác biệt. Đại đa số những người cha, người mẹ đều tuyệt vời, đều yêu thương con cái, nhưng đời cũng có những người cha hay mẹ thật tệ, sống vô trách nhiệm, bỏ mặt con cái. Ca dao Việt phản ánh:

 Gió đưa bụi chuối sau hè

 Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ

 Đời sống thường ngày hay trong văn chương có không ít những người cha hy sinh vì con cái, chịu cảnh gà trống nuôi con, tất cả chỉ vì yêu thương lo lắng cho con mình được sống an vui:

 Mồ côi cha ăn cơm với cá

 Mồ côi mẹ liếm lá đầu đường

 Kho tàng văn học dân gian Việt Nam có vô số những câu ca viết về cha, nhửng câu ca dao hay tục ngữ phản ảnh tình cảm của người dân, là lời ăn tiếng nói, là tâm hồn của người lao động. Ngày xưa, khi nước Việt mở mang về phương nam, dòng  người từ bắc vào nam khai hoang lập ấp, điều kiện xa xôi cách trở, không phải ai ra đi cũng mang theo cả gia đình được, có những người con đi xa ngóng về quê nhà nhớ cha, nhớ mẹ:

 Đến đây phải lụy câu hò

 Thương cha nhớ mẹ con đò cách xa 

 Có những người con thương cha nhớ mẹ, nằm ngó nóc nhà mái tranh mà buộc miệng ngâm:

 Ngó lên lạt buộc mái nhà

 Thương cha nhớ mẹ lòng đà quặn đau 

 Cũng với hoàn cảnh ấy, tâm sự ấy nhưng dân gian có thêm những phiên bản khác, cũng diễn tả nỗi lòng thương cha nhớ mẹ nhưng còn khái quát nỗi nhớ thương ấy nhiều hơn, sâu đậm hơn  và buộc chặt lắm, tợ như những mối lạc buộc tranh:

 Ngó lên lạc buộc mái nhà

 Lạc bao nhiêu mối thương mẹ ( cha) già bấy nhiêu

Người cha phương tây, người cha Việt ở hải ngoại có thể nói là không quá cựcc nhọc lam lũ để nuôi con, cũng không có cái lối:” Hy sinh đời bố củng cố đời con” như những người cha Việt nơi cố quận. Phải công nhận rằng những người cha ở quê hương mình, nhất là những người nông dân nghèo khổ, quanh năm lam lũ cực nhọc kiếm được những đồng tiền ít ỏi để nuôi con ăn học, gom góp chắt chiu từng đồng gởi lên thành đóng học phí cho con, phải nói là những đồng tiền ấy thấm đẫm mồ hôi nước mắt của cha, của mẹ. Những người cha nghèo ở thành thị cũng không khác gì, bán thịt mua xương, vất vả trăm bề làm ra đồng tiền để nuôi con, khó có bút mực nào tả nổi nỗi nhọc nhằn của những người cha như thế. Những người sinh ra trong nhung lụa, lớn lên trong sự sung túc khó mà hiểu được công lao  cũng như sự hy sinh của mẹ, cha.



 Nếu ví:” Tình mẹ bao la như biển thái bình dạt dào” thì:” Tình cha ấm áp như vầng thái dương” ( lời của bài hát). Khi con còn bé thơ, cha cõng con vào đời, lớn lên, cha lại dắt con vào đời. Cha là chỗ dựa cho đời con. Nhà Phật ví:” Dầu có cõng cha mẹ trên hai vai, đi khắp thế gian này cũng không báo đáp được công lao của cha mẹ”, công lao sinh thành dưỡng dục của cha mẹ lớn lắm, là một trong tứ trọng ân, không chỉ những người con Phật ghi nhớ, mà tất cả mọi người cũng đều ghi nhớ! 

 Truyền thống phương đông cũng như hoàn cảnh và tập quán xã hội, tình cảm cha mẹ và con cái sâu đậm, sống gắn bó với nhau, ở chung một nhà. Khi con còn nhỏ thì cậy cha mẹ, khi cha mẹ già thì lại cậy con:” Trẻ cậy cha già cậy con”. Truyền thống phương tây lại khác, coi trọng chủ nghĩa cá nhân, hầu như không có chuyện cha mẹ và con cái sống chung một nhà. Con cái đủ trưởng thành thì phải ra riêng. Cha mẹ dẫu có già cũng thích sống độc lập hoặc vào viện dưỡng lão chứ ít khi chịu chung đụng với con cái. Hoàn cảnh xã hội và tập quán văn hóa nó thế. Ở phương tây phương tiện vật chất đầy đủ, chính phủ có chính sách chăm sóc người già, có hệ thống y tế chăm sóc sức khỏe tốt… Nhưng cũng phải công nhận là tình cảm cha mẹ và con cái của người phương tây ít sâu đậm và ràng buộc như người Việt. Cha mẹ Việt rất thương con cái, không chỉ nuôi nấng từ tấm bé, chu cấp cho ăn học, dựng vợ gả chồng… mà còn lo nhiều thứ nữa, ràng buộc quấn quýt  nhau, thậm chí khi con hư vần không nỡ lòng bỏ, con đã trưởng thành rồi vẫn quan hoài lo lắng… nói chung là lo lắng quan tâm cả một đời. Vì thế mà những người con hiếu cũng thương cha mẹ rất mực, sự gắn bó với nhau không chỉ một kiếp này mà có thể còn nhiều đời nhiều kiếp:

 Đêm đêm con thắp đèn trời

 Cầu cho cha mẹ sống đời với con 

 Hoặc là 

 Lên non bứt sợi mây rừng

 Thấy cha khỏe mạnh con mừng hơn ăn

 Mây rừng vốn gai góc, mọc thành bụi, bứt được mây rừng không phải dễ. Ăn là việc quan trọng hàng đầu của con người cũng như của sinh vật, có ăn mới sống được. Ấy vậy mà với người con hiếu thảo thì thấy cha khỏe mạnh còn vui hơn được ăn. Người con hiếu thảo, thương cha ( mẹ) được mô tả một cách mộc mạc, chân thành qua cái nhìn của người dân lao động. Người dân quê thố lộ tình cảm, gởi gắm tâm sự qua những bài dân ca, ca dao rất thiết tha, đơn giản như công việc và cuộc sống của chính họ

 Còn cha còn mẹ thì hơn

 Mất cha mất mẹ như đờn đứt dây

 Đờn đức dây thì còn thay được, cha mẹ mất rồi thì con bơ vơ đau buồn lắm, chẳng có gì thay được!

 Vị trí người cha trong con mắt dân gian cũng rất gần gũi, thân mật và rất cụ thể, khác với cái nhìn người cha qua văn chương của khổng giáo hay của những vị học rộng tài cao, chữ nghĩa nhiều. Người dân quê nói về cha rất thật, rất đời thường:

 Con có cha như nhà có nóc

 Hoặc 

 Con có cha như nhà có nóc

 Con không cha như nòng nọc đứt đuôi

 Người cha quan trọng lắm, con không cha khó mà nên người, không có cha lấy ai rèn dũa, dạy bảo? tất nhiên cũng có những người con mồ côi cha vẫn nên người, vẫn thành đạt trên đường đời 

 Ngày lễ cha vốn đã không sôi nổi như ngày lễ mẹ, hơn thế năm nay vẫn còn dịch nên ngày lễ cha năm nay càng thêm trầm lắng nhưng với những người con hiếu thì lòng thương cha nhớ mẹ vẫn không hề suy suyển, ngày nào hình bóng cha mẹ vẫn ở trong tâm.

 Phương tây có những ngày lễ rất thiết thực, rất nhân bản như: Ngày lễ cha, ngày lễ mẹ, ngày lễ tình yêu… rất thực tế, rất đời thường, nhắc nhở mọi người thương yêu và trân trọng những người thân của mình, đó cũng đồng với ý nghĩa “ Ngay bây giờ và ở đây”. Hãy yêu thương và biết ơn những người thương của mình, hãy trân trọng những người yêu thương của mình, hãy yêu thương và chăm sóc cha mẹ cho tử tế, đừng hờ hững để rồi hối hận. Cha mẹ sống không lo lắng yêu thương, đến khi chết thì cúng tế rùm beng, mồ to mả lớn chẳng có nghĩa lý gì. Dân gian đã minh định rõ ràng

 Khi sống thì chẳng cho ăn

 Đến khi chết xuống làm văn tế ruồi

 Thời đại hôm nay, cuộc sống chạy theo chủ nghĩa vật chất và thực dụng, con  gười ( nhất là giới trẻ) lệ thuộc nặng nề vào phương tiện vật chất, sống không thể thiếu: Internet, điện thoại thông minh, Ipad… và bao nhiêu thứ khác. Con người dần xa rời truyền thống của ông bà cha mẹ, âu cũng là lẽ đương nhiên. Cái đáng nói là con người ta dần phai nhạt bớt tình nghĩa cha mẹ, coi nhẹ truyền thống “ Ơn nghĩa sinh thành”, thậm chí còn coi đó là lạc hậu, cũ kỹ, không hợp thời… Đây là điều đáng tiếc! Cái tình nghĩa cha mẹ muôn đời vẫn thế không thể có chuyện cũ mới, con người sống phải có tình, có hiếu thì mới nên người. Con người không phải là người máy! Chừng nào mà con người còn được sinh ra và nuôi dưỡng bởi cha mẹ thì cái tình cha mẹ không thể nào cũ và lạc hậu được! Tình nghĩa cha mẹ ngàn đời trước đã thế, bây giờ tiếp nối và có lẽ mai sau vẫn vậy. 

 Ngày lễ cha, con xin gởi về cha lòng yêu thương, kính trọng. Con cầu Phật gia hộ cho cha mẹ sống trong tình thương, tỉnh thức, thân khỏe mạnh, tâm thường lạc.

 

TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 06/2021

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.