Hôm nay,  

Bộ Râu Xồm, Tư Bản Của «Mác»

8/6/202114:25:00(View: 3846)
Đàn ông là phải có râu «Nam tu nữ nhũ» như sách đã dạy. Khoa học lý giải râu là biểu hiện sức mạnh và từ đó phát xuất sự ham muốn chiếm đoạt nhưng không vì thế mà râu trở thành môt thứ vũ khí chết người. Râu của người Á châu khác với râu của người Âu châu, cả về cách để râu, chăm sóc râu. Theo kinh nghiệm, nhìn râu, người ta có thể xét đoán về người. Như người cương nghị, người vui tánh, người có máu … Riêng người cộng sản có râu hay không râu, râu tốt hay xấu, đều có liên hệ ít nhiều đến diễn tiến của phong trào cộng sản và số phận người lãnh đạo. 

Râu của lãnh đạo tôn giáo

Đấng Christ và các vị Tông đồ vì gốc do thái nên giữ giới luật theo Moise không được phép cạo râu. Để râu là cách tôn trọng mình được Thượng Đế tạo ra. Ngài thương mà tạo ra người đàn ông có bộ râu. Cũng vì kính trọng Thượng Đế mà con người không được phép xăm mình, xỏ tai, xỏ mũi, cắt tay chơn, … Con người là thiêng liêng và là sản phẩm do Thượng Đế tạo ra!

Với người Công giáo, râu của tăng lữ là vấn đề đứng đắn và có tánh cách tiêu biểu. Râu có một lịch sử dài. Giáo Hoàng không râu, mặt mày nhẵn nhụi, xuất hiện vào thế kỷ 18, sau nhiều do dự. Trước kia bắt buộc, rồi nhiều lần hủy bỏ, râu khi tượng trưng cho sự thánh thiện, khi lại là dấu ấn tội lỗi. Số phận râu trôi nổi theo lớp sóng phế hưng của lịch sử Giáo hội. 

Giáo Hoàng Innocent XII (thế kỷ XVII), nổi tiếng là người quyết liệt chống lại phe cánh «gia thế» cầm quyền trong Giáo hội, là vị Giáo Hoàng cuối cùng có râu, ria mép và cả chùm râu lún phún dưới cằm. Thật ra, Giáo Hoàng nhiều râu cuối cùng phải là Jules II. Như vậy, giáo dân từ hơn 350 năm đến nay không còn Giáo Hoàng có râu nữa!

Với tu sĩ Công giáo, râu chiếm một địa vị quan trọng trong kinh thánh Do thái. Cắt râu một người đàn ông là một cử chỉ sỉ nhục. Cạo râu hay nhổ râu là dấu hiệu tang tóc. Để cho người nào đó đùa giỡn với bộ râu của mình, không tránh khỏi bị coi là kẻ điên. Cắt râu hay tỉa râu cho giống một kiểu nào đó của dân chúng thế tục, phải bị giáo hội ngăn cấm và trừng phạt.

Như đã nói, ở người Công giáo, râu có khi được khuyến khích, có khi bị cấm. Ngay cả Đấng Christ là người có râu và nhiều râu nhưng có khi Ngài xuất hiện không có râu. Nhiều Linh mục trong Giáo hội khi có râu, lúc không râu. Nên rất khó có một kết luận dứt khoát ai phải có râu, ai không,và lúc nào, ở đâu?

Người Chánh thống giáo, người Sikht và Hồi giáo, hàng chức sắc đều để râu vì râu đối với họ là biểu hiện trí tuệ và sự kính trọng. Râu là tượng trưng và cho phép tinh thần hội nhập với tâm, tư tưởng với hành động, lý thuyết với thực hành. Nên những người này không có quyền cắt tóc, cạo râu vì đó là dấu hiệu tuân thủ luật trời.

Cắt tóc cạo râu là đánh mất đi một phần thân thể của Trời ban cho và người không râu là kẻ phản đạo. Chức sắc lãnh đạo tôn giáo phải có nhiều râu và râu phải dài, phù hợp với địa vị của vị chức sắc. Oussama Ben Laden có vai trò tối quan trọng trên tầm vóc quốc tế nhưng người Hồi giáo lấy làm tiếc bộ râu của ông quá ngắn và không đủ rậm cho tương xứng với địa vị của ông. Phải chăng vì vậy mà ông chết sớm và chết thảm?

Để râu xồm xoàm của người Hồi giáo như ta thấy ngày nay là do một tập tục có từ lâu đời ở phương Đông. Người Ai-cập (Egyptien), người Babylonien, người Hi-lạp (Grec), người Do thái đều tranh nhau về bộ râu của ai dài, rậm, đẹp. Ở thế kỷ thứ VII, một người Do thái tốt, có tiếng tâm, phải là người có bộ râu đẹp.

Nhà Tiên tri Mohamed để râu là theo tập tục lâu đời của địa phương.

Ngày nay, người Hồi giáo để râu là biểu tượng của Hồi giáo kháng chiến. Có tính bắt buộc. Vì đó là trở về với Allah! Và râu của lãnh tụ ở một số khu vực được nhuộm màu đỏ hoe vì theo sự tin tưởng của những người này thì Mohamed rất thích bộ râu màu đỏ.

Tuy nhiên luật vẫn có ngoại lệ. Thủ lãnh của Mặt trận Hồi giáo võ trang thành lập năm 1991, Ali Belhadj, lại không có râu. Sau này, Ali Belhadj trở thành thần tượng của lực lượng thánh chiến Algérien. Ali Belhadj còn là nhà truyền giáo nổi tiếng ác ôn. Có lẽ vì vậy mà Ali không cần có râu vẫn đủ cho mọi người thấy nam tính và bề thế của mình?


Bộ râu xồm, tư bản của «Mác»

Trong giới đầu não cộng sản, trong những ngày đầu, phần đông đều có râu, với nhiều kiểu khác nhau. Tổ sư Các Mác (Karl Marx) có bộ râu xồm rất đặc biệt, dày đặc. Lê-nin để râu mép. Staline cũng râu mép. Nhưng tới Khrouchtchev lại không có râ . Theo thời gian, tuổi đời cộng sản càng cao, càng ít người lãnh đạo có râu. Không biết có liên hệ nào trong hiện tượng này hay không?


Lúc trẻ, khi cùng với Friedrich Engels viết «Bản Tuyên ngôn Cộng sản», Mác đã có bộ râu rậm rạp nhưng Engels đâu phải chịu thua. Ông cũng là tay râu xồm. Ngoài ra, khi hai người tình cờ gặp nhiều lãnh tụ hay lý thuyết gia tả khuynh khác, tất cả cũng đều có râu và râu đẹp.

Hai ông gặp Pierre -Joseph Proudhon, khuynh tả (người Pháp, ký giả, nhà xã hội học, kinh tế gia, triết gia chánh trị và đặc biệt hơn, là người mở đầu chủ thuyết vô chánh phủ ở Pháp, trí thức lớn duy nhứt thật sự xuất thân từ giới thợ thuyền Pháp) lại cũng là người có râu đẹp, rậm, chăm sóc kỹ. Proudhon vẫn cho rằng đàn bà chẳng may xấu xí chỉ vì không có râu tuy họ rất thông minh và nhạy bén. Khi Bakounine, lãnh tụ Quốc tế lao động, xuất hiện không khỏi làm cho Mác và Engels kinh ngạc vì bộ râu của ông này quá đẹp và quá vĩ đại trong lúc bộ râu của Mác có tiếng là đồ sộ thì nay đã bắt đầu ngã màu thời gian rồi!

Vế sau, Mác từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác khi con gái Jenny của ông dẫn về giới thiệu với ông một người Pháp, Charles Longuet, từng tham gia «Paris Công xã», thuộc Đảng Xã hội Pháp (chủ nghĩa), có bộ ria mép, tỉa khéo léo và đầy vẻ trí thức của đất Paris. Liền đó, người con gái thứ hai Laura cặp tay một anh chàng Pháp khác, Paul Lafargue, về chào ông. Lafargue có bộ râu mép kiểu gauloise, rất Tây, dày, rậm, chăm sóc kỷ, nằm gọn trên môi trên, xuống vừa chí miệng, hai bên rũ xuống khóe miệng. Nhưng Lafargue lại mê bộ râu của 2 người bạn, Jules Guesde, người đồng sáng lập «Đảng Thợ thuyền» với ông và Jean Jaurès, người có công tranh đấu cho phe xã hội (chủ nghĩa) Pháp thống nhứt.

Cùng thời, ở Nga, Pierre Kropotkine thông báo một cuộc cách mạng tự do là người có một bộ râu rực rỡ. Nhưng khi tham gia vào cuộc xung đột giữa 2 phe bolcheviks và mensheviks thì râu của ông lại còi đi!

Cha đẻ cộng sản Nga, Gueorgui Plekhanov, để râu hàm đẹp, trong lúc đó Pavel Axelrod, phe mensheviks, thường tự hào có bộ râu xồm không thua nhà văn Léon Tolstoi. Một người cộng sản khác, có tiếng năng nổ trong giới tả khuynh, Julius Martov, có bộ râu không giống ai hết, nó như chiếc khăn quàng cổ màu đỏ hoe. Bạn thân của ông từ thời trẻ với nhau là Vladimir Ilitch Oulianov, sói đầu sớm, có lẽ do bẩm sanh, để bù lại, ông ta để ria mép màu đỏ hung, khá chăm sóc kỹ và người đời chỉ biết tên ông là Lê-nin, người sáng lập Đệ III Quốc tế và nổi tiếng gian ác.  Đồng chí với ông trong biến cố gọi là cách mạng Tháng Mười, Davidovitch Trotski, khác hơn ông vì có mái tóc rậm đen, nhưng ông ấy vẫn cố để mọc ra vài sợi râu dưới cằm.

Các đồng chí Đệ IV của Trotski, Grigori Zinoviev, trái lại không để râu, vì phản kháng truyền thống gia đình Do thái, nhưng Kamenev có râu đẹp. Cả hai đều bị tên hung thần Staline, thuở nhỏ cùng bạn thân với nhau, có tên là Koba sát hại. Tên Staline lúc còn trẻ, trước khi được Lê-nin kết nạp nhờ thành tích du đãng và ăn cướp, để râu rậm rạp theo kiểu băng đảng thảo khấu ở Caucase. Nhưng khi về với Lê-nin, anh chàng cạo mặt sạch sẽ, chỉ chừa bộ ria mép và để công o bế khá tươm tất. Khi hoạt động cho Lê-nin, Staline đánh cướp ngân hàng, làm được một vố to, lập thành tích dâng  cho đảng và nhờ đó, được Lê-nin tin dùng, kế nghiệp Lê-nin. Nắm đảng, Staline chi viện và huấn luyện Mao, lực lượng võ trang của Mao, để đưa cách mạng cộng sản Tàu lên nắm quyền năm 1949. Staline và Mao do cùng bản chất gian ác và cùng cộng sản nên cả hai đã chia nhau giết cả 100 triệu nhơn dân bị họ cai trị.

Tới đây thì râu xồm của người cộng sản cấp lãnh đạo đi vào thoái trào, nhường chỗ cho giới mặt láng, mày râu nhẵn nhụi. Và cũng từ đây, cộng sản từ từ trải qua nhiều diễn tiến quan trọng.

Năm 1953, Staline chết ở Mạc-tư-khoa (Moscou). Ông cai trị độc tài tuyệt đối, không ngần ngại thanh toán nhũng ai có ý chống đối hay phê phán đường lối của ông. Qua tháng 2/1956, Nikita Khrouchtchev đọc báo cáo mật hạ bệ Staline và chủ trương sống chung hòa bình với thế giới tư bản. Tượng Staline lần lượt bị tháo gỡ, chấm dứt chế độ tôn thờ cá nhơn một cách quái gở. Qua năm sau, Hà nội ngã hẳn qua Bắc kinh, dựng lên những vụ án xét lại chống đảng nhằm thanh lọc nội bộ, cũng một thời gieo rắc kinh hoàng trong hàng ngũ đảng  cộng sản Hồ Chí Minh tay sai. Và cũng từ đây, tên lãnh tụ không râu Lê Duẩn âm thầm hạ bệ bác của hắn, biến bác thành một thứ con chi chi, ngoan ngoãn vâng  lời ngay trước Quốc hội khi bác muốn phát biểu mà phải tịt mồm. Bị đàn em hạ sát đất vì bộ râu le que của bác, thứ râu của gian thần trong hát bộ, không đủ sức độ bác.

Và cũng từ đ ây, các cấp lãnh đạo cộng sản, không còn ai có râu nữa, mà đều là thứ «mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao» cả. Và cũng từ đây, cộng sản đã thật sự thay đổi, lấy công an làm sức mạnh bảo vệ chế độ thay «nhơn dân», và lấy tiền thay chủ thuyết cộng sản.

Riêng Castro ở bên kia bờ Đại Tây dương còn giữ bộ râu xồm vì lỡ thề bao giờ cách mạng cộng sản thành công mới cạo râu. Chết mất nhưng cách mạng cộng sản vẫn chưa thành công. Và chẳng bao giờ thành công Nay ở Cuba, dân chúng hàng trăm ngàn rầm rộ xuống đường  biểu tình đòi dẹp bỏ chế độ cộng sản độc tài, thay thế bằng Tự do, Dân chủ thì có sống lại, Castro chắc chắn sẽ không bao giờ cạo râu được!


Nguyễn thị Cỏ May


Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.