Hôm nay,  

Bạn và Thù

25/09/202113:40:00(Xem: 4524)
Vụ «tàu lặn» của Pháp bùng nổ hôm thứ năm 16/09/21 vừa qua đã làm cho Pháp nổi giận, đưa đến khủng hoảng ngoại giáo với Úc, Anh và Mỹ khá nghiêm trọng.  Ông T.T Macron không lên tiếng. Ông Thủ tướng Castex giữ im lặng và lo chuyện dịch vũ hán. Chỉ có ông Tổng trưởng Ngoại giao Jean-Yves Le Drian khai hỏa nhắm thẳng 3 đối thủ nả đạn đại pháo : «Đúng là cú chơi đâm thẳng vào lưng bạn. Đúng là cú chơi xỏ lá, hoàn toàn đáng khinh. Thật rõ là Úc muốn bán rẻ chủ quyền quốc gia của mình». Trên TV 2 của Pháp, hôm 18/09/21, ông nói thẳng với ông TT Biden «Nói dối, xảo trá, đánh mất niềm tin quan trọng đáng  khinh bỉ. Vậy, cách chơi này không chấp nhận được giữa chúng ta. Nay Biden hiện rõ chỉ là thứ Trump không tweets mà thôi!».

Ông Tổng trưởng Ngoại giao của Pháp, Le Drian, là đảng viên Đảng Xã hội, năm 2016, là Tổng trưởng Quốc phòng của Chánh phủ xã hội François Hollande, ký hợp đồng bán cho Úc 12 tàu lặn chạy diesel-điện giá 56 tỷ euros. TT Macron không chánh thức của Đảng Xã hội nhưng khởi nghiệp từ Đảng Xã hội dưới trào François Hollande và nhờ những Voi già xã hội tiến cử nên khi đắc cử, lập chánh phủ, đưa vào chánh phủ những người của Đảng Xã hội và cả người phe Hữu. Macron là người nhảy dù rớt thẳng vào Điện Elysée làm ông Tổng thống, chỉ có «đảng viên» duy nhứt lúc khởi nghiệp là bà vợ! Ông lập đảng cầm quyền « En Marche » (Tiến lên). Có người đọc « En Marche » theo nghĩa chánh trị riêng là « Emmanuel Macron » !

Vụ khủng hoảng sa lầy. Pháp vẫn chưa hết giận ! 


Ông Tổng trưởng Ngoại giao cho triệu hồi ông Đại sứ Pháp ở Canberra và Hoa-thịnh-đốn. Ông Đại sứ ở Luân-đôn vẫn ở lại nhiệm sở vì ông cho rằng Anh trong vụ « khủng hoảng thế kỷ » này chỉ là bánh xe sơ-cua mà thôi. Ngoài ra, ông Thủ tướng Anh, Boris Johnson, cũng có lời nhiệt tình gợi lại tình bạn lâu đời giữa 2 nước cùng bên bờ biển Manche.


Diễn tiến khủng hoảng

Mọi chuyện bắt đầu từ năm 2016 khi Tập đoàn kỹ nghệ pháp Naval Group giành được « hợp đồng thế kỷ » trị giá 31 tỷ euros (50 tỷ đô-la úc), bán cho Úc 12 chiếc tàu lặn chạy diesel-điện loại Attack, 4.500 tấn, dài 97m, thiết kế theo mô hình tàu lặn nguyên tử pháp Barracuda. Tới năm 2023 sẽ sản xuất tại Adelaide, Úc.

Nhưng dự án gia hạn và giá cả tăng. Chánh phủ Úc phản đối Naval Group. Phía Pháp không đồng ý lý lẽ của Úc và giá 12 tàu lặn không phải là 31 tỷ€ nữa là là 56 tỷ€ (90 tỷ đô-la úc) do lạm phát và thời hạn quá kéo dài.

Năm 2020, Bộ Quốc phòng Úc lo ngại về những thay đổi bất lợi này. Ông Chủ tịch Naval Group vội bay qua Úc xoa dịu và nhắc lại cam kết của Pháp.

Hồi tháng 6 vừa qua, Tổng trưởng Quốc phòng Úc thấy khó thực hiện được giai đoạn đầu hợp đồng. Ông TT Macron vội trấn an ông Thủ tướng Úc Scott Morrison là Pháp cam kết sẽ đi tới cùng theo hợp đồng.

Nhưng tới hôm 16/09/21, Hiệp ước Mỹ-Úc-Anh xuất hiện làm bể hợp đồng giữa Paris và Canberra.

Trước một hôm, ngày 15/09/21, qua buổi họp trên mạng giữa 3 ông Scott Morrison, Joe Biden và Boris Johnson, ông Thủ tướng Úc liền tuyên bố « nước tôi sẽ trang bị tàu lặn nguyên tử cho phù hợp với tình hình mới, theo Hiệp ước an ninh địa phương Ấn-Thái Bình dương »

Pháp đành thua cuộc. Vì Pháp không có vai trò sanh tử ở Nam Thái Bình dương ? Vả lại, trong tình hình căng thẳng ở đây, Pháp đưa đề nghị nên tìm giải pháp bằng « con đường thứ ba » để khả dĩ tránh xung đột nguy hiểm. 


Trước sự giận dữ của Pháp, ông Thủ tướng Úc giải bày là ông vì nhu cầu đối phó với sự bành trướng quá hung hăng của Tàu ở biển đông mà phải chọn tàu lặn nguyên tử. Ông chọn con đường khác chớ không thay đổi ý kiến. Tàu chạy bằng nguyên tử có khả năng chiến đấu cao hơn.

Ông xác định « Tôi không lấy làm tiếc về quyết định của tôi chỉ vì quyền lợi của Úc là trên hết. Tôi sẽ không bao  giờ hối tiếc».


Qua ngày 20/09/21, Liên Hiệp Âu châu lên tiếng ủng hộ Pháp. Bà Chủ tịch Ủy Hội, Ursula von der Leyen, phê bình « cách Pháp bị đối xử như vậy là không thể chấp nhận được ». Tiếp theo đó, Tổng trưởng Ngoại giao của 27 nước Âu châu bày tỏ sự ủng hộ rỏ ràng « Âu châu luôn đoàn kết với Pháp».


Sự khủng hoảng tàu lặn bổng mở ra nhiều vấn đề cho Pháp về mặt quan hệ quốc tế. Pháp có quan điểm trong chiến tranh lạnh mới này không phù hợp với vùng Thái Bình dương trong lúc  Tàu ngày càng bành trướng tham vọng chiếm vùng này để từng bước tiến tới làm chủ thế giới.

Năm 2018, giữa Úc và Âu châu có ký thỏa thuận trao đổi tự do, Pháp lại có ý định ngăn chận « Chúng ta đang thảo luận giao thương với Úc, tôi không thấy làm thế nào mà người ta có thể tin tưởng được ở đối tác Úc ».

Ông Macron còn nói rõ hơn « việc theo đuổi thương lượng với Úc là điều không thể tưởng tượng ».

Nhưng sau cùng, 2 ông Biden và Macron sẽ có cuộc nói chuyện trực tiếp với nhau về vụ « khủng hoảng thế kỷ » này.


Rồi cũng qua

Hôm thứ năm 23/09/21, ông Tổng trưởng Ngoai giao Le Drian của Pháp nói chuyện riêng với ông Antony Blinken, Bộ trưởng Ngoại giao Huê kỳ, về hợp đồng mua bán tàu lặn, nhơn diệp 2 người gặp nhau ở NY, tại trụ sở Phái bộ ngoại giao, không có micro, không có caméra. Sau  1 giờ nói chuyện tay đôi, ông Le Drian vui vẻ nói « Rồi chuyện này cũng sẽ qua thôi ! Nhưng phải có những hành động và thời gian ».


blank

Antony Blinken và Jean-Yves Le Drian, hồi 7/ 2021 (NICHOLAS KAMM / AFP)


Ông Le Drian nhắc lại với ông Blinken « Vậy giai đoạn 1 giữa chúng ta đã vượt qua theo sự mong muốn của 2 ông Tổng thống . Nhưng khủng hoảng thật sự chấm dứt giữa 2 nước phải cần thêm thời gian».

Ông Blinken nói tiếng pháp và rất yêu nước Pháp bởi suốt thời gian dài lúc nhỏ, ông sống ở Paris với mẹ và học ở đây. Ông Le Dian không dấu cảm tình riêng của ông đối với ông Blinken nhưng trước đây, trong vụ khủng hoảng tàu lặn, ông không nói chuyện với ông ấy. Kể cả lúc cùng hợp Hội đồng LHQ suốt cả tuần.


Lập lại sự tin cậy với nhau

Trước đó một hôm, ông Biden và Macron đã tìm cách  lập lại niềm tin đã bị đánh mất trong vụ khủng hoảng tàu lặn. Pháp đã thấy trong vụ tàu lặn, mình đúng là nạn nhơn trực tiếp của thế Mỹ xoay trục qua Á châu mà trục Mỹ-Anh-Úc vừa thành hình nhằm ngăn chận sự bành trướng của Tàu ở địa phương.

Hai vị Tổng thống «Đồng ý mở những cuộc tham khảo ý kiến giữa các đồng minh để có thể tránh tình trạng tương tợ đã xảy ra. Hai ông cũng thông báo sẽ có một cuộc tham khảo ý kiến sâu rộng nhằm thiết lập những điều kiện bảo đảm niềm tin với nhau ».

Sau cuộc trao đổi này, ông Biden bày tỏ hi vọng « mọi việc sẽ trở lại bình thường ». Nhưng phía Pháp muốn tiếp cận vấn đề theo một cách khác hơn. Ông Le Drian « đồng ý giữ sự tiếp xúc chặt chẽ hơn với ông Antony Blinken » để « tìm lại niềm tin với nhau ».

Về phía Huê kỳ cũng thừa nhận việc hòa hưỡn lại với Pháp phải có thời gian. Riêng ông Blinken cũng đồng ý chuyện bình thường trở lại phải có thời gian và cần nhiều vận động nữa.

Nhắc lại sự đồng ý phối hợp và hợp tác giữa ông Macron và Biden qua cuộc điện đàm hôm thứ tư 22/09/21, ông Blinken mong muốn 2 nước đồng minh sẽ có thể làm được nhiều việc hơn và tốt hơn. Và ông cũng quả quyết Pháp trong vùng Ấn độ -Thái Bình dương có thể có vai trò quan trọng hợp tác với khối Mỹ-Anh-Úc.

Vụ «khủng hoảng thế kỷ» xảy ra đột ngột và gay gắt qua vụ tàu lặn Pháp-Úc tưởng chừng như khó mà hàn gắn lại được tình đồng minh kỳ cụu xưa nay nhưng rồi cũng thấy nhiều dấu hiệu tích cực để tin chắc trời sẽ lại sáng.

Bởi xưa nay trong chánh trị vẫn chưa có kẻ thù muôn thuở và bạn muôn đời. Chỉ duy nhứt có quyền lợi của quốc gia dân tộc là trên hết. Nhưng điều này lại không đúng ở nước cộng sản như Việt nam. Vì ở Việt nam chỉ có quyền lợi đảng cộng sản là trên hết. Nguyễn văn Linh, Tổng Bí thư đảng đã không từng nói lớn «Thà mất nước chớ không để mất đảng!» sao?


Nguyễn thị Cỏ May


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.