Hôm nay,  

Sát thủ "Pacemaker"

13/06/202217:40:00(Xem: 6015)

Tìm hiểu quân sử thế giới


7c79838a2cf195e0b87a72501203553b.jpg


Tháng 11-1952 chiến tranh Cao Ly tiếp tục khốc liệt giữa Hoa Kỳ với quân Trung Cộng dưới quyền Bành Đức Hoài. Ngày 18 xảy ra đụng độ giữa một phi tuần Grumman F9F với một phi đội Sô-Viết bên trên không phận giữa Hội Ninh (Hoeryong) và căn cứ Hải Sâm Uy (Vladivostok) của Nga-Sô. Eisenhower vừa đắc cử Tổng thống, đích thân sang thị sát mặt trận và triệu tập viên phi công đã bắn rơi 4 chiếc MIG-15 của Nga. Một chiến tích chưa từng có và chưa hề tái lập. Kỳ lạ là chiến công bị ém nhẹm và Trung úy Royce Williams buộc phải im lặng trong suốt nửa thế kỷ. 


Sinh 1925 và gia nhập US Naval Aviation năm 1942, Royce Williams thi hành 90 phi vụ tại Cao Ly và 130 phi vụ tại Việt-Nam. Phần lớn binh nghiệp tác chiến phục vụ trong phi đoàn 781 (về sau cải danh VF-121 "Pacemakers" là phi đoàn nhận phản lực Phantom F4 đầu tiên). Rời quân ngũ vào năm 1975 với chức vụ Air Wing Commander, Williams chỉ được phép lên tiếng về trận không chiến sau khi Nga bạch hóa tài liệu mật. 


Qua trả lời phỏng vấn của Williams năm nay đã 96 tuổi vào Tết Nhâm Dần, bên dưới sôi động, người đọc vẫn còn nhận ra trí óc minh mẫn, tính khôi hài cùng tinh thần kỷ luật của một phi công Mỹ. Và nếu có một chút vị đắng thì phương ngôn “Actions speak louder than Medals” nói lên lòng tri ân của công chúng.


Phỏng vấn đăng trên nhị nguyệt san Guerres & Histoire số 63 phát hành tháng 10-2021.

[Trần Vũ]


-oOo-

 

Picture2.png

Guerres & Histoire: Ông gia nhập US Navy lúc nào?


Royce Williams: Lên tám, tôi đã muốn thành phi công Hải quân. Tôi say mê máy bay. Lên 16 vào năm 1941, tôi tình nguyện vào Vệ binh Minnesota. Năm sau, tôi đậu vào US Navy rồi tốt nghiệp với đôi cánh bay trên ngực áo. Lễ mãn khóa diễn ra ở Pensacola năm 1945. Quá muộn để tham chiến Thái Bình Dương.  


G&H: Nhật đầu hàng, ông vẫn tại ngũ?


R.W: Dĩ nhiên! Ước mơ của tôi là bay bổng. Tôi không quăng giấc mơ của mình vì hết chiến tranh. Tôi về căn cứ khu trục Opa-Locka ở Miami. Tôi đảm trách huấn luyện trên nhiều chiến đấu cơ Hellcat, Corsair và Bearcat. Năm 1951, tôi đạp tứ tung xin thuyên chuyển sang phản lực.


G&H: Ông sang Cao Ly như thế nào?


R.W: Tôi biệt phái về phi đoàn "Trợ Tim", Fighter Squadron VF-781 "Pacemakers", trên hàng không mẫu hạm Oriskany lúc ấy vừa tiếp nhận các phản lực F9F Panther mới tinh. Việc chuyển sang phản lực diễn ra suôn sẻ. Khác biệt lớn là không còn "hiệu ứng cánh quạt" túm đầu nhấc bổng lên mà là lực tống từ đuôi, như thúc vô đít. Ngược lại, cất cánh và đáp xuống dễ dàng hơn. Tức khắc tôi mê "em" Panther, cứng cáp, ngoạn mục và chịu đòn rất cừ. Cockpit tiện nghi, quan sát rộng, 4 đại bác 20 ly, 6 rocket hoặc 2 ngàn cân bom. Một sát thủ! 


korea map fighter.png


G&H: Ông "trợ tim" ra sao trong chiến tranh Cao Ly?


R.W: Chúng tôi quần ngoài khơi Bắc-Hàn, ném bom xuống nhà ga, nhà máy, các đoàn xe Molotova của đối phương. Tôi thực hiện 90 phi vụ oanh kích tổng cộng. Ăn cao xạ thường xuyên nhưng "em" Panther "đi khách" nhà nghề, biết đưa kỵ mã – ngay cả khi "em" thủng lỗ chỗ – về bến an toàn! Cuối năm 1952 chúng tôi tấn công Hội Ninh là binh trạm lớn ở Đông-Bắc Triều Tiên. Nhưng binh trạm này ngay sát biên giới Nga.


G&H: Chuyện gì đã xảy ra ngày 18 tháng 11-1952?


R.W: Chúng tôi bay ngoài khơi Bắc-Hàn, không xa biên thùy Nga. Thời tiết địa ngục, trần mây rất thấp chừng 400 bộ (120m), và lên 2,000 bộ (600m) thì mưa tuyết, khí lạnh Bắc cực và cuồng phong. Lúc sáng sớm chúng tôi đã đánh bom Hội Ninh một bận, đến trưa cùng ba đồng đội, tôi nhận lệnh bay tuần tra (Combat Air Patrol). Chúng tôi cất cánh dưới mưa đá. Ngay lúc đó Task Force 77 báo động radar: Nhiều máy bay không danh tính (bogeys) đang lao tới cách hạm đội chúng tôi 150 km hướng chính Bắc. Lệnh cho bốn chúng tôi là lập tuyến cản cao 26,000 bộ (7,900m) và quan sát. Không có tiêu lệnh chi tiết. Phòng Hành quân tin máy bay Nga sẽ quay đầu một khi thấy Hoa Kỳ dàn trận. 


G&H: Thời tiết trên không phận giao tranh lúc đó?


R.W: Bão tuyết và những đùn mây khổng lồ lên đến 12,000 bộ (3,600m). Chúng tôi lao thẳng đến, tốc lực tối đa và vượt lên cao thật nhanh. 15 phút sau khi ra khỏi mây, chúng tôi nhận diện 7 chấm sáng đang đâm xuống chúng tôi ở cao độ 16,000 bộ (4,800m). Chúng tôi đang cách hàng không mẫu hạm USS Oriskany 150 km. Tôi báo cáo là bogeys gồm 7 chiếc MIG-15. Lệnh cho chúng tôi là "Không tấn công!"; tôi trả lời lập tức: "Nhưng chúng tôi đang bị tấn công!"


G&H: Ông phản ứng ra sao?


R.W: Tôi bật thiết bị quang học của hệ thống tác xạ. Bắn thử một loạt đại bác để kiểm tra vũ khí, rồi vung rộng ra theo hình cung. Không chiến bắt đầu. Sẽ diễn ra đúng 35 phút. Phi tuần trưởng, Trung úy Claire Elwood, nhìn thấy đèn báo bơm xăng hỏng, quay đầu tức khắc với chiếc Panther bên cánh của Thiếu úy John Middleton hộ tống. Chúng tôi chỉ còn 2 máy bay. Trung úy Dave Rowlands và tôi vượt lên cao 26,000 bộ (7,900m). 7 chiếc MIG lao xuống chúng tôi, 4 bên trái, 3 bên phải, tìm cách kẹp gọng kềm. Chúng tôi đang đương đầu với một đội hình tấn công trực diện. 4 chiếc MIG đầu tiên đâm bổ xuống từ hướng 10 giờ, chúng khai hỏa tức thì nhưng quá cao, chúng lướt qua đầu chúng tôi rồi vươn lên lại. Tôi vung ngay sang trái và dựng đứng mũi để cắt vào đường bay của chiếc MIG sau cùng đang trồi lên ở hướng 6 giờ. Tôi điều chỉnh kích xạ và bắn. Ngay tức khắc chiếc MIG tuôn khói đen. Trong các phim Hollywood, khi bị bắn trúng máy bay MIG bốc cháy, là không chính xác: thực tế là tuôn khói. Rowlands, phi công bên cánh của tôi, bay lượn để vào vị trí và khai hỏa… nhưng không gì xảy ra! Đại bác của Rowlands bị… kẹt đạn.


mig15.jpg


G&H: Vậy là ông đơn độc?


R.W: Đúng vậy. Từ lúc đó chỉ còn một mình tôi. Làm gì bây giờ? Chiến đấu! 3 chiếc MIG đang tập hợp lại để tấn công. Tôi quặt gắt lại đối mặt với họ. Hai bên khai hỏa vào nhau ở tốc độ cao và gần như cạ xát. Hai chiếc MIG khác của nhóm ban đầu, lao vào tiếp chiến. Tôi rơi vào tư thế bị kẹp sandwiched, chỉ còn một cách là dogfight, xoáy trôn ốc. MIG-15 vượt trội hơn Grumman F9F Panther ở cả ba mặt: cơ động, vận tốc, và gia tốc. Nhiều lần, một chiếc MIG hiện ra trong ống nhắm, tôi khai hỏa và cảm thấy đã bắn trúng nhưng không sao có thì giờ kiểm tra. Tôi cố gắng làm sao để có thể thoát ra ở hướng 6 giờ. Tạo khoảng trống để không bị vây khốn. Sau cùng phi đội trưởng Nga với máy bay bên cánh vung sang hữu mạn, trong lúc tôi đuổi theo một chiếc MIG trong nhóm ban đầu. Nhưng hắn bay ngược mặt trời làm tôi chóa mắt và lạc mất. Vào lúc đó, tay phi đội trưởng lúc nãy với phi công bên cánh của hắn quành lại để tấn công nữa. Tôi quẹo cực gắt để đối mặt. Tôi khai hỏa vào gã phi đội trưởng, hắn lật tàu bay tránh liền. Tay phi công kia vút lên cao rồi chúi xuống, tôi dựng ngược lên, hai bên cùng phơi lườn, tôi nhả một tràng dài đại bác rạch bụng hắn. Hắn hóa thành cây đuốc đâm sầm xuống biển. Tôi quay lại tìm chiếc MIG bay ngược mặt trời, cũng đang quay lại. Lần này tôi chộp được hắn, siết cò cho đến khi hắn rụng. Đến phiên gã phi đội trưởng đang rượt theo phía sau, tôi xoáy trôn ốc cùng với hắn và cắt vào các đường xoáy của hắn để thu hẹp khoảng cách, rồi rót đạn ngay khi hắn lách ra vì không thể cầm cự lâu hơn. Tôi nhìn thấy nhiều mảnh kim khí vỡ tung từ thân tàu của hắn. Nhưng hắn đã nhanh nhẹn chúc xuống, chạy trốn.


G&H: Phi công Sô-Viết bắn trúng ông viên nào không?


R.W: Có. Trong lúc tôi tránh các mảnh kim khí và đang truy đuổi chiếc MIG thứ tư vừa bị tôi bắn hư hại, một chiếc MIG nhô ra hướng 6 giờ, họng súng 37 ly rực lửa. Một viên trúng cánh dội lên máy làm thủng ống thủy động lực. Tôi không còn kiểm soát được bánh lái và chỉ kiểm soát được một phần liếp cánh. Duy nhất cần lên xuống là còn hoạt động, tôi nhào vào mây lập tức. Nhưng hắn bám theo như đỉa, chỉ cách 150m, và liên tục xối đạn. Tôi không hiểu làm sao mà hắn có thể nhắm trật ở khoảng cách ngắn như vậy! Chính lúc đó, Trung úy Rowlands tái xuất và bổ nhào vào tên “nhắm hụt” này, làm hắn hoảng hốt tháo chạy.  


G&H: Ông có thấy chiếc Panther F9F yếu kém so với MIG-15? 


R.W: Không. Tôi không có thì giờ suy nghĩ. Các chiếc MIG lao đến vun vút… Sự khác biệt của động cơ, tính năng cơ động còn tùy thuộc vào vận tốc của hai bên lúc giáp chiến. Tôi chỉ kịp suy nghĩ cho khoảnh khắc ngay tiếp sau. Làm sao ở vào vị trí có thể hạ gục mục tiêu trước mắt. Và chiếc MIG tiếp theo đang ở đâu? Không có thì giờ tố phé.


G&H: 1 chống 7, ông phải cảm giác rất cô độc?


R.W: Khi lao vào không chiến, ít thời gian tra vấn. Có một lúc, bị một chiếc MIG bám rát đang nhắm bắn, tôi đã la lên trong máy vô tuyến: "Ai cứu, xin tạ ơn!" Cuối cùng một phi tuần tiếp cứu do phi đoàn trưởng Stan Holme của tôi chỉ huy, đã cất cánh từ USS Oriskany nhưng quá muộn, chỉ kịp nhận dạng hai chiếc MIG ở quá xa đang bay về hướng Bắc.


G&H: Còn hành trình trở về… 


R.W: "Em" Panther của tôi tả tơi. Tôi không thể bẻ lái, chỉ có thể lên xuống. Nhưng máy móc còn tốt, còn xăng. Tôi chui ra khỏi mây ở cao độ 400 bộ (120m). Tôi đã sà quá thấp để có thể nhảy dù ra ngoài. Cao độ tối thiểu cho phép bung ghế thoát thân là 1,200 bộ (365m). Thấp hơn là nguy hiểm tính mạng. Tôi cũng không muốn đáp xuống biển vì nước quá lạnh, tôi khó sống sót quá 10 phút, ngay cả với áo chống thấm poopy suit. Khi tôi nhìn thấy Task Force 77, phòng không của các khu trục hạm hộ tống chiếc Oriskany tưới đạn lên "em" Panther! Truyền tin hỗn loạn giữa đài kiểm soát không lưu CIC (Combat Information Center) và các chiến hạm phòng vệ. Trông thấy tôi, họ tin nhầm là máy bay của Nga Sô và khai hỏa chí mạng! Hoa cao xạ nở khắp nơi làm rung chuyển mọi thứ… May mắn là sai lầm ngưng nhanh.


G&H: Nhưng còn phải đáp xuống!


R.W: Đúng. Đáp tàu sân bay ít khi nào ngon ăn như bánh táo, nhất là với phân nửa cần điều khiển tê liệt. Tôi không thể dang cánh phụ (liếp ráp bên dưới cánh chính) để giảm tốc độ. Nên vẫn phải bay với vận tốc 315 km/g. Tốc độ đáp "cẩm nang" là không quá 278 km/g. Nhanh hơn sẽ kéo tung xích thắng với lưới cản, chưa kể sẽ húc tung mọi thứ rồi… ngáp dưới đáy biển. Tôi nhả bánh xe với thanh móc xích bằng tay... "Em" Panther lướt đến từ mạn phải. Tôi gào to với LSO (Landing Signal Officer) là tôi không thể đáp theo hướng trục tàu. Tôi phải… đáp như vầy! Chính lúc đó hạm trưởng Courtney Shands đã làm một việc phi thường là xoay mũi tàu ở phút cuối cùng và như phép lạ, phi đạo hiện ra thẳng băng. Tôi đáp xuống như trên lụa.


G&H: Tình trạng của ông lúc đó?


R.W: Tôi không quá mệt. Chỉ tháo mồ hôi. Áo chống thấm làm tôi hầm hơi và vì không ngớt nhìn ngang dọc, cổ tôi bị áo phao Mae West cứa rách, làm chảy máu khắp ngực. Lẽ ra US Navy phải trao cho tôi huân chương Purple Heart!


G&H: Còn tàu bay?


R.W: Không khá hơn kỵ mã! Phải nói là rách bươm. Các cơ khí viên đếm hết thẩy 263 lỗ đạn từ 23 ly đến 37 ly. Mà một viên trúng cánh rồi dội lên động cơ. Phần tôi bắn hết hộp đạn 760 viên 20 ly, không còn một xu! Không có bốn khẩu 20 ly tự động này, tôi không có cơ may thoát hiểm. Sau khi tháo máy chụp không ảnh, và xem xét kỹ lưỡng, "em" Panther bị xếp hạng "không thể cứu rỗi" và bị quăng xuống biển, không nghi thức tiễn đưa. Tôi sớm mê các em "đi khách" trên không trung, tôi càng thêm kính trọng Iron Works của xưởng Grumman suốt đời.


G&H: Ông hồi phục nhanh chậm?


R.W: Trận không chiến diễn ra vỏn vẹn 35 phút nhưng vì tập trung cao độ nên tri giác của tôi sắc nhọn. Về đến tàu, các giác quan của tôi tiếp tục hoạt động khiến trí óc tôi tỉnh táo vô cùng. Tôi không thể nhắm mắt một phút, mà có muốn cũng không được, tên tôi kêu liên tục qua máy chuyển âm nội bộ. Tôi vào phòng chiếu phim hy vọng bớt căng thẳng; nhưng vừa ngồi xuống là loa phóng thanh đã vang vang: "Trung úy Williams trình diện Trung tá Y, Đại tá Z…." May mắn là buồng riêng của cha Tuyên úy ngay cạnh buồng tôi và tối đó cha đã giúp tôi dịu xuống bằng những lời cần thiết. Cha có vẻ lo lắng cho tinh thần của tôi, vì nghĩ là tôi mặc cảm đã giết người. Thực tình là tôi không nghĩ đến, trong những phi vụ ném bom chúng tôi gây ra nhiều tổn thất hơn dưới đất. Sáng đó chính các phi công Nga đã khai hỏa trước tiên. Tôi cố gắng cứu lấy mạng sống của mình để về với gia đình. Không dễ dàng chút nào, vì 1 đối đầu với 7.  


G&H: Cấp chỉ huy nói gì về trận không chiến?


R.W: Phòng Quân báo gọi tôi lên Briefing Room gặp các nhân viên của Cơ quan An ninh Quốc gia, trực thuộc Pentagone, vừa đến bằng trực thăng. Thời đó chúng tôi gọi National Security Agency (NSA) là No Such Agency. Vì Ngũ Giác Đài mãi đến 1957 mới thừa nhận hoạt động của bộ phận này. Họ tỏ ra biết rất rõ chuyện gì đã xảy ra và còn biết tường tận hơn cả tôi. Một toán kiểm thính của họ trên tuần dương hạm USS Helena, ngoài khơi căn cứ Vladivostok của Nga, đã nghe hết các đàm thoại giữa các phi công Nga và lệnh lạc xuất phát từ căn cứ này trong lúc hỗn chiến cho đến khi các chiếc MIG bị tôi bắn rơi. Chính họ đã gửi một công điện cho hạm trưởng Courtney Shands xác nhận tôi đã hạ gục 3 chiếc MIG. Nhưng họ ra lệnh cho tôi câm miệng, không được nói với ai về "tai nạn" vừa rồi. Sau đó Phó Đô đốc Robert Briscoe lập lại mệnh lệnh: Tuyệt đối im lặng. Không phát tán tin tức. Một báo cáo chánh thức sẽ do Ban Quân báo soạn thảo và tất cả mọi người chấp nhận biên bản này. Hẳn nhiên, tôi là người đầu tiên phải tuân thủ.


G&H: Biên bản đó ghi gì?


R.W: Trong một phi vụ tuần tra có xảy ra "va chạm" trên không phận phía Bắc, trong vùng trách nhiệm Hoa Kỳ. Phi tuần của chúng tôi bị 7 máy bay "lạ" tấn công, không xác định thuộc Hồng quân Sô-Viết. Phi tuần trưởng gặp trục trặc máy móc, Trung úy Williams phải đối đầu và hạ một chiếc, Trung úy Rowlands và Thiếu úy Middleton có lẽ cũng bắn trúng mỗi người một chiếc. (Cả hai sẽ nhận huy chương Distinguished Flying Cross mà không hề bắn phát nào!)


G&H: Ông có xem lại không ảnh?


R.W: Tôi có xem lại phim trong máy. Một thủy thủ trẻ đã tráng phim rồi ráp các tấm ảnh rõ ràng thành đoạn phim ngắn. Rất ngoạn mục… nhưng không như tôi đã trải qua, vì vận tốc quá mau khiến máy ảnh tự động không sao chụp hết, nên hầu hết các pha tử chiến gần sát không thu được… Tôi còn giữ bản sao cuộn phim, bản chính chắc là trong hầm NSA.


G&H: Hồ sơ vậy là khép?


R.W: Khép kín… chừa đủ ruồi bay. Thượng cấp bắt tôi phải "lặn" thật sâu, không "thở" hơi nào với thủy thủ đoàn, ngay cả với đồng đội chung phi đoàn cũng không hé môi. Với Thiếu úy Middleton không khó khăn, có nhìn thấy gì đâu. Còn Trung úy Rowlands thấy một chút xíu. Gần như không có nhân chứng, ngoài máy không ảnh. Nhưng rồi một bài báo tiếng Anh xuất hiện trên một nhật trình ở Hương Cảng, chạy tít: "Đụng độ giữa phản lực Hoa Kỳ với Nga". Hôm sau một phóng sự khác: "Lễ truy điệu buồn thảm tại câu lạc bộ sĩ quan Nga ở căn cứ Hải Sâm Uy". Vài tuần lễ trôi qua, đột nhiên tôi nhận lệnh về Hán Thành trình diện thẩm quyền tối cao!


G&H: "Thẩm quyền tối cao" muốn gì?


R.W: Phó Đô đốc Briscoe nói với tôi là "Ike", Thống tướng Dwight Eisenhower muốn "tiếp chuyện" tôi. Middleton và Rowlands cũng cùng đi nhưng không phát ngôn một chữ. Chúng tôi xuống Tổng Hành Dinh Đệ Bát Lộ Quân Hoa Kỳ đặt trong khuôn viên Đại học Quốc gia Hán Thành ở Séoul. Tuyết rơi mạnh. Quân cảnh như lôi ra khỏi xe. Trong đại sảnh Đại tướng Omar Bradley, Tổng tham mưu trưởng Liên quân, từng là cánh tay phải của "Ike" và Đại tướng Mark Clark, Tổng tư lệnh Lục quân Thái Bình Dương vừa thay Matthew Ridgeway và Đô đốc Arthur Radford, đương kim Bộ trưởng Quốc phòng, với nhiều "vì sao" khác. Rồi Eisenhower xuất hiện. Tất cả đều vận quân phục, trừ Eisenhower vận "xi-vin". "Ike" vừa đắc cử Tổng thống Hiệp Chủng Quốc nhưng chưa tuyên thệ nhậm chức, chuyến đi thị sát mặt trận là bán chính thức. Eisenhower bước thẳng đến trước mặt tôi, bắt tay và nói đừng quá căng thẳng. Nói dễ hơn làm! Mắt nhìn mắt, Eisenhower cười mỉm: "Anh là tay phi công muốn khai màn Thế chiến thứ ba?" Tôi trả lời: "Tôi thề là không!"


G&H: Thực sự Eisenhower muốn biết gì?


R.W: "Ike" yêu cầu US Navy cung cấp một sĩ quan có thể thuyết trình ưu khuyết điểm của máy bay Hoa Kỳ so với Nga trên thực tế, không trên lý thuyết. Khi đó, chiếc Grumman F9F-5 Panther đang là phản lực cơ đầu tiên của Hoa Kỳ và MIG-15 cũng là phản lực cơ xuất trận lần đầu của Nga Sô. US Navy nghĩ tôi có kinh nghiệm sống thực. Nhưng chúng tôi hầu như không bàn đến trận không chiến vừa xảy ra cách đó mấy tuần. "Ike" biết chuyện gì xảy ra. Ở vị trí sắp làm tổng thống, "Ike" nhận các phúc trình mật. "Ike" không hỏi và tôi gần như chỉ nhắc là tôi bị tấn công. Điều "Ike" muốn biết thật sự là phản lực Hoa Kỳ có "hơn tiền" phản lực Nga hay không? Tôi trả lời là tôi bị qua mặt, bị lấn áp trên không. Thêm nữa, khi "tiếp chuyện", "Ike" tìm cách thuyết phục tôi là Scotch Whisky "Made in Scotland" ngon hơn US Bourbon Whiskey pha sô-đa! "Ike" ngồi lên tay vịn ghế bành, xì-gà ngậm miệng, thân mật quàng tay qua vai tôi. Tân President nhất quyết muốn chứng minh là ông có ở đây, ngay trong đại sảnh, chai Scotch tuyệt luân nhất thế giới. Con trai thứ của "Ike", Thiếu tá John Doud Eisenhower đang đứng sau quầy bar, sẽ rót cho tôi một ly. Nhưng tôi vẫn cứng đầu: "Bourbon is the supreme whiskey ever made!" Điều khôi hài là 60 năm sau, tôi phải công nhận là có những chai "Single Malt" tuyệt hảo! Nhất là Scotch miền Highlands. "Ike" hoàn toàn có lý!


G&H: Sau đó binh nghiệp ông đi về đâu?


R.W: Không gì đặc biệt. Tôi tiếp tục tác chiến. Sau Đình chiến, chiếc USS Oriskany lui xuống vĩ tuyến 38 là đường phân ranh Nam-Bắc Hàn. Sau đó tôi lái phản lực F9F-6 Cougar trên hàng không mẫu hạm USS Boxer ngoài khơi vịnh Bắc-Việt. Trong suốt trận Điện Biên Phủ, chúng tôi trong tình trạng ứng chiến, sẵn sàng cất cánh ném bom Việt Minh trong lòng chảo, nhưng cuối cùng Pháp đầu hàng. Sau đó tôi thi hành 130 phi vụ oanh kích trong Nam và ngoài Bắc Việt-Nam.


G&H: Ông đã giữ im lặng về đụng độ Nga-Mỹ?


R.W: Tôi không kể với một ai về "tai nạn". Trừ Camilla mà tôi làm quen năm lên 11 tuổi khi đi học lớp Thánh Kinh Sunday School rối kết hôn. Người đàn ông dư khả năng lừa bất kỳ ai, từ xếp đến đồng nghiệp, họ hàng, bè bạn… Trừ vợ! Camilla luôn đoán ra là tôi đang giấu chuyện gì! 


G&H: Khi nào US Navy cho phép ông bộc bạch chiến tích?


R.W: Vào năm 1992 sau khi Nga Sô rã. Thư khố mật của Không quân Sô-Viết bạch hóa dần. Đô đốc John Richardsons, Trưởng phòng Hành quân US Navy khi đó (sau này làm Director of the Naval Nuclear Propulsion Program) mà tôi từng là phi công bên cánh, công nhận là thời gian đã đủ lâu. Rồi sử gia Barrett Tillman bất ngờ liên lạc với tôi cho biết là thế giới đã biết tên 4 phi công Nga không trở về: Đại úy Viktor Belyakov, các Trung úy Vandaiev, Pakhomkin và Tarshinov. Phi cơ của Phi đội trưởng Belyakov bị tôi bắn hư hại lết về được không phận Nga Sô nhưng cuối cùng đâm xuống vịnh Đại đế Pierre-Le-Grand (Peter the Great Gulf). Như vậy, tôi hạ 4 chiếc MIG, không phải 3 như cơ quan An Ninh quả quyết. Tôi nghĩ giản dị là nếu Nga khai bí mật, thì không cần bảo mật nữa. Thêm các cựu chiến binh thúc giục… Tôi đã giữ im lặng hơn suốt nửa thế kỷ. Điều lạ lùng nhất, đó là lần duy nhất trong suốt binh nghiệp tôi tham gia không chiến. Trên chiến trường Bắc-Việt, tôi không thấy bóng một chiếc MIG nào.    


Picture1.png


G&H: Phải đánh giá thế nào về khả năng của phi công Cộng sản?


R.W: Tôi không hiểu cách họ bay bổng. Thay vì lừa tôi vào những vòng xoáy ốc mà với số đông họ có thể phân lực, toán rượt theo tôi cùng xoáy trôn ốc và toán bủa vây bên ngoài, đợi tôi phơi bụng lách ra là triệt hạ. Sẽ không quá khó. Thay vì vậy, bất kỳ vị thế nào của tôi, họ tấn công luân phiên từng người một, trong lúc những người còn lại quan sát và đợi phiên. Chính kiểu thức này giúp tôi bắn hạ từng chiếc một. Trong lúc với số đông, họ có thể hội đồng. Cho đến bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao. Tôi nghĩ là họ thiếu kinh nghiệm tác chiến không trung.


(*) Maurin Picard phỏng vấn Williams Royce tại tư gia trên đồi Escondido, San Diego. Trần Vũ dịch từ bản Pháp văn in trong Guerres & Histoire số 63 phát hành tháng 10-2021. 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.