Hôm nay,  

Vũ Bằng

20/10/202300:00:00(Xem: 3332)

vu bang

Nhà báo Xuân Ba kể lại: “Đêm chuyển về sáng một ngày tháng tư năm một ngàn chín trăm tám tư, Vũ Bằng thều thào với Long kiếm cho ba cái điếu?! Trời đất, bệnh nặng vậy mà hút chi? Nhưng ông cứ kéo cái điếu về phía mình kéo một hơi rồi ho sặc sụa... Vũ Bằng sau hơi thuốc dim lim vẻ như khỏe lại? Nhưng rồi cứ lịm dần, lịm dần... Nhà văn Vũ Bằng trút hơi thở cuối cùng lúc bốn giờ ba mươi sáng. Vũ Bằng nghèo quá, túng quá! Tội vạ bất như bần!”
   
Ông sinh ngày 3 tháng 6 năm 1913, mất hôm 7 tháng 4 năm 1984. Nhân sinh thất thập cổ lai hy. Dù vậy, tôi vẫn muốn nhà văn của chúng ta thọ thêm đôi ba tuổi nữa (ráng lết luôn qua thời bao cấp) để những ngày tháng cuối đời, may ra, đỡ cơ cực và cùng quẫn hơn được phần nào. Còn nếu VB sống được tới trăm năm thì càng tốt vì sẽ có cơ hội để xem Red Family (phim Nam Hàn) của Kim Ki-duk và Lee Ju-hyoung, trình chiếu lần đầu vào năm 2013. Tâm sự (hay tâm trạng) của người làm “điệp báo” như ông đã được gói ghém trong tác phẩm điện ảnh này.
   
Kịch bản như sau:
   
Ở vùng ngoại ô của thủ đô Soul có hai gia đình sống cạnh nhau. Bên này là 4 công dân bình thường của Nam Hàn. Còn bên kia là 4 điệp viên (giả dạng thường dân) của Bắc Hàn, xâm nhập miền Nam để thu thập tin tức và xử tử những người đào tị từ miền Bắc. Với thời gian, nếp sinh hoạt ở miền Nam (nói chung) cũng như của gia đình hàng xóm (nói riêng) đã dần thay đổi cách nhìn cũng như quan niệm của những kẻ nằm vùng. Họ chuyển biến dần dần. Nói cách khác, dung dị hơn, là họ bị miền Nam cảm hóa (hay Nam hóa) bởi cuộc sống tương đối an lành và nhân bản nơi vùng… địch tạm chiếm! Cuối cùng, đám điệp viên Bắc Hàn đã từ bỏ công tác được giao phó, dù biết rằng tính mạng của mình và của thân nhân (còn ở bên kia giới tuyến) đều sẽ bị lâm nguy. VB cũng thế. Tuy thuộc diện tập kết ngược nhưng ông cũng bị “Nam hóa” hoàn toàn, và cũng đã quên mất vai trò điệp báo.
   
Tập kết ngược là sao?
   
Báo Quân Đội Nhân Dân (số phát hành hôm 22/04/2017) tường thuật: “Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (tháng 7-1954), cách mạng Việt Nam đứng trước tình thế mới. Bộ đội, cán bộ ta ở miền Nam tập kết ra Bắc, địch chuyển quân vào Nam và cưỡng bức dân di cư. Thời kỳ đó, Cục Địch vận (nay là Cục Dân vận) xác định: Cuộc chiến chưa thể kết thúc, cần phải đưa những đồng chí trung kiên vào miền Nam … những đồng chí được cử vào Nam (“tập kết ngược”) là chấp nhận đi vào nơi gian khổ, đầy hy sinh, thử thách.
   
Trong số họ có đồng chí vợ yếu, con nhỏ, có nữ đồng chí đang có người yêu, chỉ chờ tổ chức đám cưới… Vậy mà khi được giao nhiệm vụ, họ đều sẵn sàng, hào hứng lên đường, không mảy may đắn đo, suy nghĩ. Các đồng chí ra đi được giáo dục về tư tưởng và trang bị các nội dung về nghiệp vụ công tác binh-địch vận. Họ vào Nam bằng nhiều cách: Đi máy bay, đi tàu thủy theo đường di cư; có người vào giới tuyến rồi vượt biển vào Nam…”
   
Không ai biết VB đã vào Nam bằng cách nào nhưng tôi biết (chắn chắn) là ông chả có thực hiện được bất cứ một “công tác binh-địch-vận” nào sất cả. Ông chỉ viết thôi, viết rất hay (và viết không ít) trong suốt thời gian nằm vùng:
   
Miếng Ngon Hà Nội (bút ký, 1960);  Miếng Lạ Miền Nam (bút ký, 1969); Bốn Mươi Năm Nói Láo (hồi ký, 1969); Mê Chữ (tập truyện, 1970); Nhà Văn Lắm Chuyện (1971); Những Cây Cười Tiền Chiến (1971); Khảo Về Tiểu Thuyết (biên khảo, 1969); Thương Nhớ Mười Hai (bút ký, 1972); Người Làm Mả Vợ (tập truyện ký, 1973); Bóng Ma Nhà Mệ Hoát (tiểu thuyết, 1973);  Nước Mắt Người Tình (tiểu thuyết, 1973)…

vu bang 2
  
Tác giả Anh Chi (báo Đại Biểu Nhân Dân) tường thuật: “Vũ Bằng được các nhà văn nổi tiếng Sài Gòn (cũ) ghi nhận là một hiện tượng văn chương đặc biệt trong đời sống văn chương, báo chí miền Nam. Họ chỉ biết, ngoài năm mươi tuổi ông lập gia đình với bà Phấn, rồi lao động vất vả để nuôi vợ con. Họ đâu có biết, nhà văn tài danh Vũ Bằng còn là một chiến sĩ quân báo, vào Sài Gòn để chống Mỹ cứu nước.”
  
Má ơi! VB vừa làm báo, vừa viết văn, “ngoài 50 mươi mới lập gia đình” (lần nữa) và còn phải “lao động vất vả để nuôi vợ con” thì ổng “chống Mỹ cứu nước” vào lúc nào? Chiến sỹ quân báo VB rõ ràng không lập được một thành tích nào ráo trọi nên cả chục năm sau (sau khi cách mạng thành công, miền Nam được hoàn toàn giải phóng) ông vẫn không được trả công, và không mua nổi một cái vé tầu về Bắc:
   
“Vũ Bằng sở dĩ chưa ra Bắc chứ phải không ra vì một lý do cực kỳ đơn giản, Vũ Bằng nghèo quá, túng quá! Tội vạ bất như bần! Không có cái tội chi khổ bằng cái nghèo! Vĩnh viễn nhà văn Vũ Bằng không có bao giờ có dịp một lần tìm về nơi mười hai thương nhớ ấy...” (Xuân Ba. “Vì Sao Vũ Bằng Sau 75 Không Ra Bắc.” Tiền Phong Online, 17/05/2020).
   
Rồi mãi 16 năm sau, sau khi ông qua đời, đến tháng 3 năm 2000 Cục Chính Trị mới có “văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo.” Cũng trong năm này, ông được CTN Trần Đức Lương trao tặng “Huân Chương Chống Mỹ Cứu Nước Hạng Ba về thành tích điệp báo nằm vùng.”
   
Coi: ông tập kết ngược vào Nam để thi hành công tác từ hồi 1954 lận. Gần hai phần ba thế kỷ sau, nhà nước mới có “văn bản xác nhận” cùng với một tấm “huân chương hạng ba”! Sao kỳ cục vậy kìa?
   
Báo Nhân Dân (số ra ngày 27 tháng 12 năm 2013) giải thích bằng những câu chữ hơi gượng gạo:
   
“Hơn 30 năm sống trong Sài Gòn, dưới vỏ bọc một nhà văn ‘quay lưng lại với Cách mạng’ để hoạt động trong mạng lưới tình báo, Vũ Bằng đã phải chịu nhiều điều tiếng và sự lạnh nhạt của bạn văn, cũng như người đời. Ngay cả sau khi đất nước thống nhất, Vũ Bằng vẫn mang tiếng ‘dinh tê’, vì nhiều nguyên nhân, trong đó có sự đứt đoạn trong đường dây tình báo.”
   
Tôi thì ngại rằng có “sự đứt đoạn” với cả cái đám tập kết ngược (vào Nam) chứ chả riêng chi họ Vũ. Mấy thấp niên qua chưa bao giờ thấy có tổ chức một buổi lễ vinh danh (hay tưởng niệm) cho nhóm người này cả, dù “ăn mày dĩ vãng” vốn là sở trường của cái nhà nước hiện hành.
   
Thực trạng của tập thể cán bộ (“đứt đoạn”) này khiến tôi nhớ đến nhận xét của một vị chỉ huy, thuộc lực lượng tình báo Bắc Hàn, khi nói về đám cán bộ nằm vùng dưới quyền, trong cuốn phim Red Family: “No matter how much traning, they all fall to capitalism.
   
Thảm thiệt?
   
Nhưng nói thế (“chúng đều ăn phải bả của Chủ Nghĩa Tư Bản – they all fall to capitalism”) nghe e hơi cường điệu. Cũng như bao nhiêu cán bộ tập kết ngược khác, VB chả có bị hấp dẫn hay cuốn hút gì bởi Chủ Nghĩa Tư Bản đâu. Cuộc sống tương đối an bình, no đủ, thoải mái ở miền Nam đã khiến họ nhận chân được mọi sự, rồi “tự chuyển biến” và “lơ là” công tác. Thế thôi.
   
Riêng VB thì biến từ một anh điệp báo (giả dạng nhà văn) thành một nhà văn thứ thiệt: độc đáo, tài hoa, có đông đảo độc giả và được rất nhiều người ái mộ. Đó là món quà tặng mà miền Nam đã dành cho ông trong thời gian tập kết.
   
Thế còn miền Bắc?
   
Tuy muộn, nhà cầm quyền Hà Nội cuối cùng cũng đã trao cho VB cái “Huân Chương Chống Mỹ Cứu Nước Hạng Ba” rồi đấy. Vậy còn thắc mắc, khiếu nại gì nữa, cha nội? Thưa không. Có ai dám “thắc mắc” hay “khiếu nại” gì đâu. Tôi chỉ mong sao, ở bên kia thế giới, VB hổng biết có cái vụ huân chương (thổ tả) này thôi. Tội ổng chớ!

– Tưởng Năng Tiến

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?
Ngày 30/4 năm thứ 46 sau 1975 đặt ra câu hỏi: Còn bao nhiêu năm nữa thì người Việt Nam ở hai đầu chiến tuyến trong chiến tranh mới “hòa giải, hòa hợp” được với nhau để thành “Một Người Việt Nam”? Hỏi chơi vậy thôi chứ cứ như tình hình bây giờ thì còn mút mùa lệ thủy. Nhưng tại sao?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.