Hôm nay,  

Sự lãng quên

10/11/202300:00:00(Xem: 3174)
su lang quen
 
Tuy lịch sử không nói đến, nhưng nếu chịu khó lục lọi đây đó, người ta sẽ tìm ra một giai thoại khá thú vị về việc bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam được Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc trong buổi lễ trước công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là Quảng trường Ba Đình) ngày 2 tháng 9 năm 1945. Theo tường thuật của nhà báo Hồng Hà trên báo Cứu Quốc của Việt Minh, ông Nguyễn Hữu Đang là người đọc chương trình buổi lễ và giới thiệu Chính phủ Lâm thời cùng chủ tịch Chính phủ đọc Tuyên ngôn Độc lập. Ông Nguyễn Hữu Đang là Trưởng ban Tổ chức Lễ đài, ông chính là người đứng trước micro giới thiệu: “Thưa đồng bào... Đây là Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh.” Nói xong, ông lùi lại, nhường micro cho Hồ Chí Minh.
    Bức ảnh chụp ông Hồ đọc bản tuyên ngôn có Nguyễn Hữu Đang đứng ngay sau lưng. Có lẽ đó là bức ảnh được truyền bá sâu rộng nhất trong nước vào thời điểm đó, trên báo chí cho quần chúng đọc, trên sách vở cho học sinh, sinh viên học hành, trên tài liệu cho cán bộ, quân nhân học tập, v.v… Nhưng, hơn mười năm sau đó, sau khi ông Nguyễn Hữu Đang và nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm bị đảng trù giập không thương tiếc, bản thân ông bị tống cổ vào tù, thì hình ảnh ông đứng sau lưng Hồ Chí Minh bị tẩy xóa (rất tinh vi). Từ lúc đó trở về sau, bức ảnh Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập không có Nguyễn Hữu Đang.
    Cũng vào quãng thời gian này, một chuyện tương tự xảy ra bên trời Tây, sau Đệ nhị Thế chiến, chính xác là tại Tiệp Khắc, một quốc gia phiên thuộc của đế quốc Xô Viết. Chuyện này được nhà văn Milan Kundera [1929-2023] thuật lại trong cuốn tiểu thuyết Tập sách cái cười và sự lãng quên của ông, một tác phẩm quan trọng đã đưa tên tuổi ông lên hàng nhà văn tầm vóc quốc tế vào cuối thế kỷ XX. Ông viết như nhau:
    “Tháng Hai năm 1948, lãnh tụ Cộng sản Klement Gottwald bước ra bao lơn tòa dinh thự xây từ thời Baroque thủ đô Praha để hiệu triệu hàng trăm nghìn công dân đứng chật ních dưới quảng trường Phố Cổ. Đó là khúc quành trọng đại của lịch sử Bohemia – một thời khắc định mệnh.
    Đứng cạnh Gottwald là các đồng chí của ông, Clementis gần nhất, ngay bên cạnh. Tuyết rơi tầm tã, trời se sắt lạnh, và Gottwald để đầu trần. Thấy vậy Clementis ân cần lấy mũ của mình đội lên đầu Gottwald.
    Cơ quan tuyên truyền của đảng in ra hàng trăm nghìn bức ảnh Gottwald đứng trên bao lơn, mũ lông thú trên đầu, các đồng chí đứng bên cạnh, nói chuyện với quốc dân. Lịch sử xứ Bohemia Cộng sản khởi đi từ cái bao lơn đó. Qua bích chương, sách vở, bảo tàng viện, đứa trẻ nào cũng biết rõ bức ảnh.
    Bốn năm sau họ khép Clementis vào tội phản quốc và đem ông ra treo cổ. Ngay tức khắc cơ quan tuyên truyền của đảng bôi xóa ông khỏi lịch sử và, dĩ nhiên, ra khỏi tất cả những hình ảnh họ công bố trước đây. Từ lúc đó trở đi, Gottwald đứng một mình trên bao lơn.
    Nơi Clementis đứng giờ đây chỉ còn lại bức tường trơ trọi của tòa dinh thự. Clementis hoàn toàn tan biến, chẳng còn lại gì, ngoại trừ cái mũ lông thú trên đầu Gottwald.”
   Đảng Cộng sản Việt Nam xóa ảnh Nguyễn Hữu Đang đứng sau lưng Hồ Chí Minh, họ còn xóa những hình ảnh kinh hoàng của biến cố Tết Mậu Thân 1968 thảm khốc ra khỏi lịch sử. Trong chiến tranh, quân lính hai bên chém giết nhau là chuyện có thể chấp nhận, con người từ lâu vốn tự đặt ra quy luật bất thành văn như thế, nhưng giết người già, em bé vô tội – không phải một vài người mà hàng ngàn người – không chút vũ khí tự vệ trong tay là tội ác chiến tranh, là sát nhân. Biết như thế, người Cộng sản Việt Nam bằng mọi giá, mọi cách, phải xóa bức ảnh thảm đát, ghê rợn đó ra khỏi lịch sử.
 
***
 
Nguyễn Hữu Đang của Việt Nam và Clementis của Tiệp Khắc, nạn nhân Mậu Thân 1968, bây giờ chỉ còn là những bóng ma, bóng ma quá khứ. Chỉ bóng ma mới có thể hiện ra và tan biến không để lại hình tích gì trên một bức ảnh, và bởi vì là bóng ma nên nó chỉ làm được một việc duy nhất là hù dọa trẻ nít và những kẻ yếu bóng vía. Nó chẳng làm được gì cho lịch sử. Lịch sử gạt nó ra ngoài lề, nếu ta hiểu lịch sử đồng nghĩa với quyền lực.
   Những bóng ma ấy, và vô vàn những bóng ma khác, sẽ dần dà trôi vào miền quên lãng. Sự hiện hữu của chúng là một nghi vấn, và trí óc con người luôn luôn sẵn sàng biến nghi vấn thành sự lãng quên.
    Sự lãng quên có ý nghĩa về mặt nhận thức, vì nó liên quan đến những gì chúng ta có thể biết và cách thế chúng ta biện minh cho niềm tin của mình. Nó cũng có thể liên quan đến chủ nghĩa hoài nghi trong triết học, đặc biệt trong ngữ cảnh của chủ nghĩa hoài nghi thế giới ngoại tại. Nếu chúng ta quên đi những trải nghiệm hoặc tri thức nhận thức trước đây, điều đó có thể đặt ra câu hỏi về độ tin cậy của các giác quan và khả năng nhận thức thế giới bên ngoài. Triết gia Friedrich Nietzsche có một quan điểm thú vị về sự lãng quên. Ông lập luận rằng quên không chỉ là sự suy giảm trí nhớ mà là một khía cạnh cần thiết của ý chí quyền lực và sự tự khẳng định. Ông tin rằng các cá nhân cần quên đi những trải nghiệm và giá trị trong quá khứ để tạo ra những cái mới và khẳng định bản sắc riêng của mình. Khái niệm về sự lãng quên cũng có thể liên quan đến bản sắc cá nhân trong bối cảnh triết lý của tâm trí. Câu hỏi liệu cùng một người có thể tồn tại xuyên thời gian dù đã quên nhiều trải nghiệm trong quá khứ hay không, vẫn là chủ đề tranh luận. Các triết gia theo Chủ nghĩa Hiện sinh như Jean-Paul Sartre thì đưa ra khám phá về ý tưởng quên trong bối cảnh tự do và trách nhiệm. Trong bối cảnh này, sự lãng quên có thể được xem là cách thế để vượt thoát khỏi gánh nặng của quá khứ và tạo ra sự tồn tại (hiện hữu, hiện tồn, hiện sinh, hữu thể) của chính mình. Còn ông triết gia José Ortéga Y Gassett thì không ngần ngại nói thẳng thừng một cách rất ư là bình dân dễ hiểu, “Quá khứ và tương lai không thể là cuộc chiến đấu tay đôi. Tương lai phải nuốt chửng quá khứ, nuốt hết, không để sót lại gì thì mới khỏi thua trận.”
    Xem ra sự lãng quên là một thuộc tính tất yếu của con người mà không phải ai cũng có thể khắc phục hoặc chế ngự. Con người vốn chóng quên. Trong một thế giới bão hòa với thông tin và dữ kiện như cuộc sống ngày nay, sự chóng quên lại là một yếu tố cần thiết để thích ứng với các điều kiện nội tại cũng như ngoại tại, như triết gia John Locke từng lập luận rằng khả năng quên là điều cần thiết để duy trì bản sắc cá nhân của một con người theo thời gian, bởi nếu không quên, tâm trí chúng ta sẽ tràn ngập những thông tin không liên quan và lỗi thời.
    Những vụ thảm sát do chiến tranh gây nên đánh động tâm tư chúng ta, nhưng thử hỏi ngày nay ai còn nhớ đến Mậu Thân 1968, ai còn nhớ đến Kosovo, đến Iraq. Tôi dám cược bất cứ cái gì là chỉ trong vòng vài năm nữa, khi ngọn lửa chiến tranh tàn lụi, sẽ chẳng còn ai nhớ đến Ukraine, đến Palestine nữa. Hình ảnh thảm khốc những đứa bé chết cháy thành than sẽ lùi vào quên lãng.
    Thương nữ bất tri vong quốc hận, Cách giang do xướng hậu đình hoa.
    Thi hào Đỗ Mục từ thời Vãn Đường, thế kỷ IX, đã ngậm ngùi than thở như thế. Vâng, chẳng phải bây giờ người ta mới chóng quên.
    Đối với các thế lực cực quyền, đây chính là điểm yếu của con người mà họ khai thác tới hạn để che đậy những tội ác do chính họ gây ra. Họ sử dụng nó như một công cụ bài bản để sửa đổi lịch sử sao cho phù hợp với quan điểm giáo điều và chính thống của họ. Tất cả những gì không đi theo đường lối, chủ trương của họ hoặc bất lợi cho họ về mặt tuyên truyền, họ không ngần ngại cho vào bóng tối, phủ nhận, lấp liếm, đổ thừa, cho dù những hành vi đó phi lý, vô lý đến đâu chăng nữa. Bạn đừng phí công phí sức chất vấn hay tranh luận về sự không hợp tình hợp lý, không tôn trọng sự thật của họ. Chỉ vô ích thôi bởi bạn đang nói chuyện với một cục đất ù lì. Trong bóng tối, sự vật trở nên mù mờ, xập xoạng như những bóng ma – những bóng ma Nguyễn Hữu Đang, Clementis và hàng trăm hàng ngàn bóng ma khác – không một chút trọng lượng, chẳng mảy may tác động lên bất cứ sự việc nào, và chỉ thoi thóp lóe lên trong giây phút phù du của lòng hoài niệm.
    Có lẽ bởi thế Kundera đã phải chua xót nói rằng: “Cuộc đấu tranh của con người chống lại quyền lực là cuộc đấu tranh của trí nhớ chống lại sự lãng quên.”
    Sự lãng quên sẽ ở với con người mãi mãi. Vĩnh viễn chúng ta bị đóng đinh vào sự lãng quên. Nó giúp cái Ác lên ngôi, và sự cứu chuộc vẫn nằm im không nhúc nhích bên trong lớp vỏ hy vọng mong manh của những kẻ khao khát Sự thật nhưng chẳng bao giờ tìm thấy.
 
– Trịnh Y Thư

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngay từ thời điểm này, cho dù chưa chính thức bước vào Tòa Bạch Ốc, tổng thống đắc cử Donald Trump đã hứa hẹn một chiến dịch bài trừ di dân lớn nhất lịch sử Mỹ. Những cuộc kiểm soát, bắt bớ, trục xuất di dân dự kiến sẽ diễn ra với qui mô lớn trong vài năm tới. Nhiều sắc dân nhập cư ở Mỹ sẽ phải lo lắng, nhưng cộng đồng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất sẽ là cộng đồng di dân gốc Mỹ Latin. Lời hứa này đang làm hài lòng những người Mỹ xem dân nhập cư là kẻ cướp đi việc làm và quyền lợi của mình. Rất đông trong số này thuộc các cộng đồng di dân, trong đó có cộng đồng gốc Việt. Tuy nhiên, có bao nhiêu người thấy được toàn cảnh ảnh hưởng của những chính sách bài trừ di dân đến nền kinh tế và xã hội Hoa Kỳ?
Trong tài liệu của Thư Viện Quốc Hội ghi rằng, nguồn gốc của quyền ân xá trong Hiến Pháp Hoa Kỳ đến từ lịch sử Anh quốc. Quyền ân xá xuất hiện lần đầu tiên dưới thời trị vì của Vua Ine xứ Wessex vào thế kỷ thứ bảy. Mặc dù tình trạng lạm dụng quyền ân xá ngày càng tăng theo thời gian, dẫn đến những hạn chế sau đó, nhưng quyền ân xá vẫn tồn tại trong suốt thời kỳ thuộc địa của Mỹ.
Tôi cộng tác với tuần báo Trẻ (tờ báo có nhiều ấn bản nhất tại Hoa Kỳ) gần hai chục năm qua. Sự gắn bó lâu dài này không chỉ vì tấm lòng yêu nghề (và thái độ thân thiện cởi mở) của ban biên tập mà còn vì chút tình riêng. Mỗi tuần Trẻ đều dành hẳn một trang báo, để trân trọng giới thiệu đến độc giả hai ba vị thương phế binh (Việt Nam Cộng Hòa) đang sống trong cảnh rất ngặt nghèo ở quê nhà. Nhìn hình ảnh đồng đội của mình đang ngồi trên xe lăn, hay nằm thoi thóp trong một gian nhà tồi tàn nào đó – lắm lúc – tôi không khỏi băn khoăn tự hỏi: “Liệu có còn ai nhớ đến những kẻ đã từng vì đời mà đi không vậy?
Đến đây thì như nước vỡ bờ, hầu như tất cả chúng tôi cùng lao mình vào cuộc. Kẻ bênh cũng sôi nổi không kém người chỉ trích. Buổi gặp mặt của chúng tôi hôm ấy, đương nhiên, đã không tránh được nhiều căng thẳng. Riêng tôi, cho đến giờ vẫn khá ngạc nhiên trước sự phản đối mạnh mẽ mà ông Biden phải gặp phải trong quyết định ân xá con trai Hunter Biden. Điều gì đã khiến mọi người có phản ứng mãnh liệt như vậy? Tôi đi tìm câu trả lời...
Kể từ năm 2011 nội chiến đã bắt đầu bộc phát tại Syria và kết quả cuối cùng là chế độ độc tài của Tổng thống Bashar al-Assad đã bị Liên minh Hồi giáo do Hayat Tahrir Al-Sham (HTS) lãnh đạo lật đổ vào ngày 8/12...
Vài giờ sau khi Donald Trump dành chiến thắng cuộc bầu cử 2024, các tìm kiếm trên Google liên quan đến 4B – một “phong trào nữ quyền” ở Hàn Quốc nổi tiếng vào giữa đến cuối những năm 2010 – tăng vọt tại Hoa Kỳ. “B” là cách viết tắt của từ “No (비)” nghĩa là “Không,” theo tiếng Hàn Quốc. Phong trào 4B là một phong trào gồm bốn “Không”: Không tình dục (No sex); Không hẹn hò (No dating); Không cưới đàn ông (No marrying men); Không con (No children). Thành viên chính của phong trào 4B là các phụ nữ trẻ trên Instagram và TikTok.
Cuộc chiến tại Ukraine vẫn đang tiếp tục leo thang. Trong nhiều tháng, tình hình chiến sự diễn ra theo chiều hướng không mấy thuận lợi cho Ukraine. Khoảng cuối tháng 11/2024, chính quyền Tổng thống Joe Biden đã quyết định cho phép Ukraine sử dụng hệ thống phi đạn chiến thuật tầm xa Atacms do Hoa Kỳ cung cấp. Đây là lần đầu tiên Kyiv được phép sử dụng loại phi đạn này để tấn công sâu vào lãnh thổ Nga.
Theo mục đích ban đầu của Hiến pháp Hoa Kỳ, các tổng thống chỉ đóng vai trò là người thi hành pháp luật chứ không phải là hoàng đế có thể tự ý ra quyết định trong mọi việc. Nhưng theo thời gian, Quốc hội dần trao quyền lực cho nhánh hành pháp (tức là cho Tổng thống) nhiều hơn; và các tòa án, với tư cách là nhánh quyền lực thứ ba của chính phủ, cũng chấp nhận điều đó. Sự thay đổi thể hiện rõ nhất trong chính sách thương mại của Hoa Kỳ.
Về địa danh ở Việt Nam, thỉnh thoảng, tôi vẫn nghe thiên hạ than phiền. Nhà báo Nguyễn Thông càm ràm: “Khi người Pháp vào xứ này, họ đem theo nền văn minh phương tây ‘khai hóa” bản địa, trong đó có văn hóa, giáo dục, ngôn ngữ. Điều không thể phủ nhận là họ đã tổ chức cực tốt bộ máy hành chính, quản lý rất rành mạch, hợp lý các vùng miền, tỉnh thành, địa phương trên cả nước. Việc phân chia một cách có hệ thống khoa học các đơn vị hành chính, tên gọi các cấp độ từng đơn vị là ví dụ rõ nhất.
Trung Quốc, Mexico và Việt Nam hiện dẫn đầu thâm thủng mậu dịch với Hoa Kỳ với con số ấn tượng của mỗi nước vào năm 2023 là $279, $152, và $105 tỷ USD. Mexico và Việt Nam là hai nước hưởng lợi nhiều nhất trong chiến tranh thương mại Mỹ-Trung nhờ làm trạm trung chuyển cho Trung Quốc đầu tư sản xuất hay dán nhãn rồi xuất cảng sang Hoa Kỳ để tránh thuế Trump 1.0.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.