Hôm nay,  

Thời Đồ Mã

12/01/202400:00:00(Xem: 2383)
Thoi do ma
  
Tôi rất thích khoa nhân chủng nhưng không có cơ may đến trường để được truyền thụ một cách bài bản về ngành học thú vị này. Hoàn cảnh sống, nói nào ngay, cũng không mấy thích hợp cho nhu cầu tự học. Suốt ngày (và suốt đời) tôi chỉ loanh quanh hàng quán nơi mà những kẻ hay lê la thường nói rất nhiều, dù sự hiểu biết của họ vốn không được bao nhiêu. Ngoài giới hạn về kiến thức, mấy ông bạn đồng ẩm còn có cái tật rất hay tranh cãi (và luôn cãi chầy cãi cối) nên mọi thông tin, từ bàn nhậu, đều không được khả xác hay khả tín gì cho lắm.
   
Chiều qua, lúc tiệc đã sắp tàn, bỗng có vị nổi hứng đặt vấn đề:
   
– Biết tại sao loài người đổi từ mẫu hệ qua phụ hệ, và đổi cách nào không?
   
Thế là bàn rượu lại râm ran và ồn ào như cũ:
   
– Còn sao nữa. Phụ nữ, đàn bà, con gái ăn ở cư xử ác nhân và ác đức quá mà. Đã vậy, còn có cái tật kỳ thị phái tính và lại thêm cái thói vợ chúa chồng tôi nữa. Áp  bức người ta đến độ hết chịu nổi nên đám đàn ông con trai buộc phải vùng lên thôi?
   
– Vùng lên cách nào? 
   
– Thì nghe nói là có tối mấy chả họp kín dưới suối lâu lắm. Xù xì tới khuya luôn rồi mới chia tay, ai về nhà nấy. Tới nhà ông nào cũng tốc mùng chui vô nằm kề bên vợ, thuận tay bóp l…/tiện tay bóp vú, hun hít tá lả bùng binh, không chừa một chỗ nào…
   
– Chi vậy, Trời?
   
– Từ từ, nghe hết chuyện cái đã. Đúng 9 tháng 10 ngày sau, tất cả phụ nữ đều lâm bồn ráo trọi. Xe cứu thương hú còi inh ỏi, chở hết mấy bả vô viện bảo sanh, không sót một con mẹ nặc nô nào ráo.
   
– Rồi sao nữa?
   
– Còn sao nữa. Khoảng trống quyền lực được lấp đầy tức khắc. Qua bữa sau là loài người bắt đầu một thời kỳ mới: Thời Phụ Hệ. Nhân ái, nhân bản, nhân đạo, nhân đức, nhân nghĩa, nhân từ, nhân văn (và nhân nhượng) hơn nhiều. Dễ thở hơn thấy rõ!
   
Chuyện không đến nỗi nhạt nhưng có chi tiết hơi thô tục (thuận tay bóp cái này, tiện tay bóp cái kia, hay hun hít everywhere) khiến cho những thính giả nho nhã đều phải nhíu mày về cử chỉ thô lỗ của đám đàn ông, trước Thời Phụ Hệ. Với thời gian, mỗi lúc loài người một thêm lịch lãm, tình tứ và lãng mạn hơn xưa – như câu chuyện kể sau (cũng mới nghe qua bàn nhậu) vào bữa hôm kìa:
   
Sáng tinh mơ, có một ông người Thời Đồ Đá Mới, vác chầy vồ đi kiếm ăn nhưng chưa ra khỏi hang động bao lâu ổng đã vội vã quay về. Mặt mũi khẩn trương thấy rõ, hổn hển ôm chầm lấy vợ:
    – Mình ơi, mình à …
    – Chuyện gì vậy cà. Bộ bữa nay gặp nguyên bầy khủng long hoặc khổng tượng hả?
    – Không.
    – Hay gặp ma Cà Rồng giữa ban ngày?
    – Cũng không. Ma quỷ gì đâu. Anh mới gặp ông Tám ở ngoài bìa rừng kìa.
    – Rồi sao?
    – Thằng chả cho hay là giai đoạn Tân Thạch Khí (Neolithic) đã chấm dứt hồi khuya rồi. Bắt đầu từ sáng nay là mình bước qua một thời đại mới, tới Thời Đồ Đồng rồi đó.
    – Úy Trời! Lẹ dữ vậy sao honey?
    – Chớ sao. Time’s flying mà cưng!
    – Vậy thì phải sắm cho em cái gương bằng đồng à nha. Không phải là em đua đòi sắm sửa gì với mấy con đĩ ngựa cùng thời đâu nhưng sáng nào cũng phải lội bộ ra bờ suối soi mặt, chải đầu, trang điểm… thiệt mỏi chân (và sợ cọp) muốn chết luôn vậy đó…
    – Tưởng gì, chớ gương lược thì kể như là chuyện nhỏ thôi. Để đó tính sau. Bây giờ mình lo nhen lửa rồi nướng đồ mồi liền đi, còn cả đống khô cá sấu và khô voi hun khói trên giàn bếp kìa. Lẹ lên nha, anh hú vợ chồng ông Sáu, ông Tám, cậu mợ Năm, bà Bẩy với cô Tư qua uống sương sương vài xị để chào đón một thời đại mới.
   

Ngay sau đó là củi lửa bập bùng, nhậu nhẹt tùm lum, karaoke um xùm, và phi cần sa mù mịt, rồi ôm nhau làm tình tưng bừng cho tới lúc gà (rừng) gáy sáng luôn.
   
Thiệt là quá đã, dù có hơi quá đáng!
   
Nhân loại, tất nhiên, không phải lúc nào cũng vui vẻ nắm chặt tay nhau, cười ha hả, nhẩy cà tưng/cà tưng (một cách nhịp nhàng và điệu đàng) qua từng thời kỳ hay giai đoạn văn minh. Đôi khi, vì sự cách trở của địa lý (hay vì sự khác biệt trong phương cách tổ chức xã hội) nên vẫn có những giống người bị bỏ rơi lại phía sau, hoặc đi theo những bước rất ngoằn nghèo và tối tăm, so với đa phần nhân loại.
   
Từ Thời Đồ Sắt, thay vì bước vào Thời Đại Kỹ Nghệ, có hằng tỉ người lại rẽ vào Thời Đồ Nhựa. Họ biến cả lục địa thành một thứ công xưởng của thế giới, chuyên sản xuất đồ vật rẻ tiền (giá bán chỉ 99 xu thôi) bất chấp mọi hậu quả và tác hại môi sinh nên không có đối thủ cạnh tranh.
   
Ai mà lại đi dành việc với những người mưu sinh bằng nghề bán máu bao giờ. Cũng chả ai muốn “cộng chung vận mệnh” với những kẻ đắm đò cả.

Thoi do ma 2
 
Cùng lúc, lại có cả tộc người (gần trăm triệu mạng) thất thểu bước vào Thời Đồ Đểu – theo nhận định của những kẻ đương thời:
    Nhà thơ Bùi Minh Quốc: “Cả thời kỳ đều cáng đã lên ngôi”
    Nhà giáo Trần Thị Thảo: “Quả thật rất khốn nạn/ Thời đồ đểu lên ngôi!”
    Kịch tác gia Lưu Quang Vũ: “Chúng ta đã trải qua nhiều thời kỳ: đồ đá, đồ đồng, đồ sắt. Nay thì đến Thời Đồ Đểu”!
    Ủa! Sao lại kêu là Thời Đồ Đểu?
    Họa sỹ Đỗ Duy Ngọc lý giải: 
    “Thời mà miếng ăn bỏ vào mồm cứ sợ là thuốc độc, bệnh uống viên thuốc cứ nghi là thuốc giả. Thời mà ở đâu cũng có thể bị đe doạ, ở trong nhà sợ kẻ cướp, ra đường sợ lũ giật giọc, sợ cây rơi, điện giật, sập hố, sẵn sàng bị giết chỉ bởi một lời nói, một ánh nhìn… Con người mất lòng tin nên chạy theo thần linh, ma quỷ. Họ mê tín đến độ cuồng si, họ tin vào Thế Giới ảo vọng một cách cực đoan.”
   
Vậy là kể như tới luôn Thời Đồ Mã rồi!
   
Thảo nào mà báo Phụ Nữ (số ra ngày 29 tháng 8 năm 2023) có bài phóng sự bằng hình, trân trọng giới thiệu ông Vua Đồ Mã Việt Nam cùng những sinh hoạt phong phú và đa dạng của nghề hàng mã hiện nay ở xứ sở này:
   
Đức Quang, 28 tuổi, sinh ra và lớn lên ở "thủ phủ" của nghề vàng mã miền Bắc - xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Bố mẹ Quang có một xưởng sản xuất đã hoạt động hơn 30 năm và nay đến lượt Quang tiếp nối. Tuổi thơ của Quang gắn liền với khung tre, hồ dán, các loại giấy đủ màu và những mô hình vàng mã…
 
Thoi do ma 3
 
Hiện tại, gia đình Đức Quang sở hữu một xưởng sản xuất rộng 20.000m2. Hằng ngày, bố mẹ Quang cùng những người thợ vẫn miệt mài với nghề thủ công đã tồn tại ở ngôi làng truyền thống suốt mấy chục năm qua. Trong khi đó, những công việc kinh doanh khác như giới thiệu sản phẩm, liên hệ đối tác... sẽ do anh trực tiếp phụ trách.
   
Ngay từ trong chính tư duy kinh doanh mặt hàng lâu năm này, Đức Quang quan niệm, mỗi sản phẩm vàng mã như một món quà mà "người ở lại" muốn gửi tặng cho "người ra đi" để tinh thần được thanh thản, vơi đi nỗi mất mát, nuối tiếc. Đức Quang mong muốn sẽ là người vận chuyển món quà tinh thần…
   
Có những câu chuyện khiến anh không thể nào quên: “Một chị khách ở Quảng Ninh muốn đặt một mô hình chiếc xe ô tô vàng mã gửi tặng người bố, bởi trước khi rời cõi tạm, người bố đã luôn phấn đấu để có thể chờ vợ con trên chiếc xe Lexus 570.” 
   
Nói cách khác là mọi nhu cầu, ước muốn, khát vọng (cũng như hy vọng) quá tầm tay với của con người ở Thời Đồ Đểu đều có thể được thực hiện dễ dàng trong Thời Đồ Mã mà không cần chờ đợi đến cuối thế kỷ này, thời điểm mà có kẻ vẫn đang lo “không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa” nữa!
 
– Tưởng Năng Tiến

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Lực lượng “ăn cháo đá bát” rất đông và lan nhanh như bệnh dịch, nhưng chưa bao giờ được công khai cho dân biết để dân bàn, dân kiểm tra. Ngược lại, dân lại là nạn nhân của đám ong nuôi trong tay áo từ bao năm nay. Chúng nằm trong ngành Tuyên giáo, trước đây gọi là Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương. Sau lưng đảng còn có đội ngũ chuyên nghề nói thuê và viết mướn gồm Báo cáo viên và Dư luận viên được trả lương bằng tiền thuế của dân.
Vào sáng ngày 1 tháng 5-1975 Trung tá bác sĩ Hoàng Như Tùng, nguyên chỉ huy trưởng Quân Y viện Phan Thanh Giản - Cần Thơ, mặc đồ dân sự, trong tư thế quân phong, đưa tay lên chào vĩnh biêt Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lênh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV, Vùng 4 Chiến Thuật, trước sự kinh ngạc của một nhóm sĩ quan cấp cao của bộ đội cộng sản vì sự dũng cảm của bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng. Một sĩ quan của bộ đội cộng sản mang quân hàm thiếu tá tiến đến và yêu cầu bác sĩ Hoàng Như Tùng nhận diện Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
Tôi là anh trưởng trong gia đình, với 9 đứa em cả trai lẫn gái, nên trách nhiệm thật khó khăn, từ nhân cách cho đến cuộc sống. Nhưng may mắn tôi gặp được những người anh ngoài xã hội để noi gương và học hỏi. Một trong số những nhân vật hiếm hoi đó, chính là anh Nguyễn Văn Tánh, người mà tôi đã có cơ hội được tiếp tay hỗ trợ và đồng hành cùng anh trong suốt 20 cuộc Diễn Hành Văn Hóa Quốc Tế Liên Hiệp Quốc tại thành phố New York từ 20 năm qua.
Tôi tha phương cầu thực gần như trọn kiếp (và may mắn lạc bước đến những nơi không thiếu bơ thừa sữa cặn) nên bất ngờ nhìn thấy mảnh đời cùng quẫn thì không khỏi chạnh lòng. Nghe tiếng mời chào khẩn thiết, nhìn những khuôn mặt khẩn cầu của đồng bào mình mà muốn ứa nước mắt.
Các định kiến tai hại đối với các phụ nữ Á Châu trong văn hóa đại chúng của Mỹ đã có từ ít nhất thế kỷ thứ 19. Từ đó, các nhà truyền giáo và binh sĩ Mỹ tại Á Châu đã xem phụ nữ mà họ gặp đó như là ngoại lai và dễ tùng phục. Các định kiến này đã ảnh hưởng luật di trú đầu tiên của Hoa Kỳ dựa vào chủng tộc, Đạo Luật 1875 Page Act, ngăn cản các phụ nữ Trung Quốc vào Hoa Kỳ. Giả thuyết chính thức là rằng, ngoại trừ được chứng minh ngược lại, các phụ nữ TQ tìm cách vào Hoa Kỳ đã thiếu tư cách đạo đức và là những gái mại dâm. Trên thực tế, nhiều người là vợ tìm cách đoàn tụ với những ông chồng là những người đã đến Hoa Kỳ trước đó. Khoảng cùng thời gian đó, các phụ nữ TQ tại San Francisco cũng bị làm dê tế thần bởi các viên chức y tế địa phương là những người sợ rằng họ sẽ lây truyền các bịnh lây lan qua đường tình dục cho các đàn ông da trắng, là những người sau đó sẽ lây lan cho các bà vợ của họ. Vào giữa thế kỷ 20, các căn cứ chiến tranh và quân sự của Hoa Kỳ tại TQ, Nhật, Phi Luật Tân,
Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Thiện Nhân, Nguyễn Hòa Bình, Nguyễn Xuân Phúc … quả đúng là những kẻ thuộc giới ăn trên ngồi trốc. Họ là những hạt giống đỏ được gieo trồng từ miền Bắc, và đã ươm mầm thành cây. Loại cây này, học giả Phan Khôi gọi một cách lịch sự là cây Cộng Sản. Còn dân gian thì gọi là cây cứt lợn!
Nếu đảng đủ can đảm và ông Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng còn đủ bản lĩnh của một Lãnh đạo gương mẫu trong công tác phòng, chống tham nhũng thì hãy công khai cho dân biết Tổ chức Thanh niên của đảng đã làm được những gì cho dân cho nước trong 90 năm qua. Hay ngót 7 triệu Đoàn viên TNCS chẳng làm được trò trống gì, ngoải vai trò tay sai đã tuyệt đối trung thành với đảng và với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh?
Adam Smith và Karl Marx cùng được gọi chung là kinh tế cổ điển (classical economy) tức là lao động (labour) tạo ra giá trị (value.) Khác ở chổ Smith quan niệm thị trường tự do giúp mọi người hưởng thụ giá trị lao động còn Karl Marx lên án giá trị lao động của công nhân bị tư bản bóc lột. Vào đầu thế kỷ thứ 20 xuất hiện một cách nhìn mới là giá trị (value) do nơi tiện ích (utility) thay vì từ lao động (labour). Thí dụ một người đang khát uống ly nước đầu thì thật ngon, ly thứ nhì vừa vừa còn ly thứ ba đầy bụng nuốt không vô, tức là giá trị của mỗi ly nước giảm khi nhu cầu tiện ích hạ thấp. Quan điểm này gọi là Giá Trị Biên Tế hay Marginal Value.
Cùng với tác phẩm của Dương Thu Hương-"Những Thiên Đường Mù", Trần Mạnh Hão-"Ly Thân", Bảo Ninh-"Nỗi buồn Chiến tranh", Phạm Thị Hoài-"Thiên sứ", "Tướng về hưu"của Nguyễn Huy Thiệp đã tạo nên dòng văn học phản kháng.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.