Hôm nay,  

Chúng bắt để làm gì?

06/03/202409:18:00(Xem: 2333)
Chính luận

phson

Trong tháng Hai vừa qua, cái chết đau thương, lẫm liệt của nhà đối kháng người Nga Alexei Navalny trong tù đã gây sầu thảm, phẫn nộ cho toàn cộng đồng tiến bộ nhân loại. Đối với người Việt Nam tiến bộ, nỗi đau lại càng sâu thêm khi trong ngày cuối cùng của tháng Hai, ngày 29, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội bắt đi cùng lúc hai nhà đấu tranh kiên cường. Làn sóng truy lùng, bắt bớ có tính càn quét những cá nhân có tư tưởng chống đối chế độ độc tài đã diễn ra từ nhiều năm qua. Song, vụ bắt bớ ngày 29 tại Hà Nội có thể đã gây ra một cảm giác bi quan trong dư luận, rằng đây là những người đấu tranh cuối cùng.
    Phải chăng thế giới dân chủ, như nhiều người nghĩ, đang suy thoái và có khả năng bị thất bại trước các lực lượng độc tài, phản dân chủ?
    Phải chăng công cuộc đấu tranh giải cộng, cứu nước của người Việt Nam đang bị đè nát, lâm vào ngõ cụt?
    Để trả lời cho câu hỏi đầu, có lẽ nhiều độc giả sẽ khẳng định ngay: đúng thế, thế giới dân chủ đang thoái trào. Nhưng một nghiên cứu nghiêm túc có tính khoa học của giới học giả chính trị mới đây đã chứng minh điều ngược lại: Chế độ dân chủ không hề thoái trào mà còn tỏ ra rất bền bỉ, dẻo dai trước các tấn công, thách thức của các cá nhân, lực lượng phi dân chủ.
    Đó là kết luận của hai học giả, Steven Levitsky, Giáo sư Đại Học Harvard, Lukan A. Way, Giáo sư Đại Học Toronto, trong một nghiên cứu, Democracy's Surprising Resilience,  được giới thiệu và tóm tắt rõ ràng với các con số, chứng minh cụ thể trên tạp chí chuyên nghành về dân chủ, Journal of Democracy số tháng Mười năm 2023.
    Về câu hỏi thứ hai liên quan tới Việt Nam, người viết cũng có suy nghĩ lạc quan và tích cực tương tự như bản nghiên cứu vừa đề cập về tình hình dân chủ trên toàn thế giới.
    Lý do nào có thể đưa đến sự lạc quan trước tình trạng chính quyền độc tài gia tăng bắt bớ như đã và đang diễn ra tại Việt Nam?
    Ở đây, người viết xin đưa ra hai lý do.
    Thứ nhất, sự gia tăng bắt bớ cả về số lượng lẫn mở rộng phạm vi bắt bớ sang nhiều lĩnh vực dường như không liên quan trực tiếp tới chính trị, như các nhà hoạt động môi trường, các nhà nghiên cứu chính sách thân chính quyền, là dấu hiệu khách quan cho thấy tư tưởng bất mãn, chống đối chế độ độc tài đã thâm nhập sâu hơn và phát triển rộng hơn trong xã hội. Nếu so với số cá nhân bị bắt trong cuộc khủng bố vào đầu những năm 2000, phong trào chống đối ngày nay đã mạnh lên và lan tỏa gấp nhiều lần. Bài viết này không đủ khả năng để liệt kê hết những gương mặt chống đối nổi bật hiện nay. Số cá nhân bị chính quyền bắt luôn luôn chỉ là một phần nhỏ của cả khối người có cùng khát vọng, tư tưởng. Do đó, sự tiếp tục bắt bớ hay gia tăng bắt bớ còn cho thấy sự bế tắc, cùng quẫn của kẻ cai trị. Chúng muốn bắt để khủng bố dân chúng nhằm dập tắt sự chống đối ngay từ trong tư tưởng. Nhưng kết quả lại là điều ngược lại.
    Thứ hai, nói về truyền thống của người Việt Nam, chúng ta phải thừa nhận trong suốt hàng trăm hoặc nhiều ngàn năm tồn tại, ngoại trừ 20 năm Việt Nam Cộng Hòa, người Việt Nam chỉ biết chống người cai trị ngoại tộc (bất kể xấu, tốt) nhưng không hề biết đấu tranh, chống đối, phòng ngừa sự cai trị độc đoán, tàn ác của những kẻ nội tộc. Với một lịch sử như thế, những phong trào hay những cá nhân độc lập có tư tưởng chống đối chế độ độc tài cộng sản Việt Nam là một sự tiếp nối rất quí giá nhưng cũng vô cùng gian khó. Quí giá là bởi chúng ta có quá ít kinh nghiệm đấu tranh, chống đối kiểu này. Gian khó là vì những người đấu tranh vừa đồng thời phải đối mặt với một chế độ tàn ác, xảo quyệt vừa đồng thời phải chấp nhận sự cô độc do khối quần chúng rộng lớn không có truyền thống lịch sử chống độc tài nội tộc. Song, chính những yếu tố này lại chứng tỏ sức sống mãnh liệt, bền bỉ, quả cảm không thể dập tắt của những người Việt Nam có tư tưởng chống chế độ độc tài nội tộc do Đảng Cộng Sản Việt Nam duy trì.
    Trước khi kết thúc, người viết xin thuật lại câu chuyện của hai người đã bị nhà cầm quyền Hà Nội bắt và giam cầm trong những bối cảnh đen tối, khép kín gấp vạn lần hôm nay.
    Luật sư Trần Danh San (1937-2013), một trí thức Việt Nam Cộng Hòa, bị chính quyền cộng sản bắt năm 1977 sau khi ông có những hoạt động công khai chống đối sự độc tài, tàn ác của chính quyền. Trong tù, Luật sư Trần Danh San không chỉ vẫn giữ tư tưởng chống đối mà còn tổ chức làm báo truyền bá tư tưởng chống đối. Nhà cầm quyền đã dùng nhiều thủ đoạn dã man, hèn hạ hòng khuất phục ông. Các bạn tù kể rằng : « Sau những trận đòn chạm tới điểm chết, sau những tháng kiên giam nơi hầm tối của anh, viên cán bộ trưởng trại Phan Đăng Lưu có câu hỏi: Anh có ngừng chống đối không? Trần Danh San trả lời chắc chắn: Chống đối là điều tất nhiên! »
    Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện (1939-2012), sinh ra và lớn lên trên miền Bắc « xã hội chủ nghĩa », đã phải đi tù nhiều lần tổng cộng 27 năm vì có tư tưởng bất ưng, tố cáo bản chất độc tài, bất nhân của chế độ Hồ Chí Minh. Trong suốt 27 năm tù ròng rã, Nguyễn Chí Thiện không bao giờ được xã hội biết đến, chứ đừng nói nhắc đến. Thế nhưng, Nguyễn Chí Thiện vẫn có niềm tin như thế này:

Trong bóng đêm đè nghẹt
Phục sẵn một mặt trời
Trong đau khổ không lời
Phục sẵn toàn sấm sét
Trong lớp người đói rét
Phục sẵn những đoàn quân
Khi vận nước xoay vần
Tất cả thành nguyên tử.
(1976)

Hai nhân vật vừa kể, và rất nhiều người đáng kính khác, đã trở thành người thiên cổ, nhưng tinh thần, khát vọng mãnh liệt chống độc tài cộng sản của họ đã được truyền tiếp, một cách kỳ diệu, vào các cá nhân, lớp người của ngày hôm nay – những người đang bị bắt, đã bị bắt, đã lại bị bắt và có thể sẽ bị bắt. Bởi chừng nào chế độ Hà Nội còn tồn tại, « chống đối là điều tất nhiên ».

 

-- Phạm Hồng Sơn

05/03/2024

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.