Hôm nay,  

Kinh nghiệm Nhật Bản

02/05/202408:08:00(Xem: 3069)
Skyscrapers_of_Shinjuku_2009_January

Thời gian còn làm Trung Sĩ Thông Dịch Viên trong Bộ Tư Lệnh Lục Quân Hoa Kỳ ở căn cứ Long Bình, Việt Nam vào năm 1969, trước khi tôi được chuyển sang phục vụ trong ngành phi hành của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, thì tôi có dịp tháp tùng phái đoàn Dân Sự Vụ (Civic Action) Lữ Đoàn 18 Quân Cảnh Hoa Kỳ (U.S. 18th Military Police Brigade) đi công tác ở Nhật Bản. Cũng trong chuyến công du này tôi đã phát hiện ra rằng, Nhật Bản là một quốc gia thực thi được chính sách phát triển kinh tế làm thịnh vượng cho toàn thể xã hội, và xóa bỏ được nhiều điều bất công.
    Đây là một điểm son đầu tiên với cái nhìn của một người thanh niên thời chiến như tôi, hằng tâm cưu mang hạnh phúc dân tộc mà tìm tòi học hỏi những điều hay cái lạ của xứ người.
 
I. Công Bằng Xã Hội
 
Để phát triển kinh tế và san bằng cách biệt giàu nghèo, hay giữa hai lớp người thành thị và nông thôn, chính quyền Nhật Bản đã khôn ngoan giải quyết vụ việc bằng cách tăng vật giá nông phẩm lên cao sao cho ổn định và điều hòa với những nhu cầu khác của xã hội. Chính sách này tạo cho lợi tức của những người nông dân không bị thua thiệt quá mức so với lương bổng đang có của lớp người công nhân thành thị.
    Với chính sách nông nghiệp Nhật Bản, giá thành lúa gạo bán ra được tăng cao nhiều phần trăm, nhưng gía mua phân bón hay thuốc diệt trừ sâu rày của nông dân lại được giữ ổn định ngoài thị trường. Cho nên đời sống nông dân đã được chính quyền quan tâm giúp đỡ, bởi đó người nghèo cũng có phương tiện để giúp cho con cháu tới trường theo học, và nâng cao dân trí.
 
II. Phụng Sự Dân Tộc
 
Nhìn thực tế vào xã hội Nhật Bản, tôi chiêm nghiệm rằng rằng, sự thay đổi đời sống dân tộc là do chính quyền phải làm, chớ không phải là do dân… Tôi nhớ lại lời triết gia Hy Lạp Aristotle, hai ngàn năm trước từng nói “Nước nghèo, dân đói thì đem chính quyền ra mà khảo hạch.”
    Lúc đó tôi cũng liên tưởng về quê hương Việt Nam, với bao lớp người dân sống nghèo khổ trên các vùng chua nước phèn và ảm đạm xác xơ. Sản phẩm người dân làm ra lại bị bọn con buôn đầu nậu cấu kết với chính quyền để tự ý định đoạt giá nông phẩm nhằm trục lợi tư riêng.
    Trong khi nhu cầu nông nghiệp như máy móc, xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu… lại bị nhóm thương gia đầu cơ tích trữ, tạo ra thị trường khan hiếm giả tạo để bán giá cao cho nông dân tiêu thụ. Bởi đó, nông dân ta vốn dĩ nghèo khổ mà đời sống lại không được chính sách bảo trợ nông nghiệp như chính quyền Nhật Bản, cho nên người dân càng ngày càng cơ cực, bất công xã hội lại càng tăng.
 
III. Bất Công Xã Hội
 
Chính quyền Việt Nam lại thường viện cớ đang có chiến tranh, phải ưu tiên phục vụ công tác chiến trường cho nên đã làm ngơ hay phó mặc cho đầu nậu trong nhóm thương gia Hoa kiều định đoạt giá cã, và rồi mang hoa hồng biếu xén quan tham trong chính quyền nhằm có đặc quyền đặc lợi.
    Quả nhiên trước mắt tôi, Nhật Bản là một tấm gương cho nhiều quốc gia lân bang học hỏi, nhưng tới nay chưa thấy dấu chỉ của nước nào có thể sánh kịp. Bởi vì, muốn phát triển kinh tế xã hội, khoa học giáo dục… trước tiên, phải thay đổi chính trị! Đó là quy luật tất yếu để phát triển quốc gia.
    Nhiều người thấy Nhật Hoàng, hay chiếc áo Kimono, hoặc các sản phẩm kỹ nghệ điện tử tràn ngập trên thị trường thế giới như màn hình TV, nồi cơm điện, bàn ủi... Nhưng xin hỏi điều gì đã làm cho Nhật Bản có được kỳ tích chính trị và kinh tế như ngày nay?
 
IV. Cải Hóa Xã Hội
 
Chúng ta không thể quên cuộc cải hóa chính trị do Minh Trị Thiên Hoàng (1852 - 1912) khởi công thực hiện. Mutsuhito 16 tuổi lên ngôi hoàng đế vào ngày 3 tháng 2 năm 1867 và làm được một cuộc cách mạng “Minh Trị: Enlightened rule” xứng với tên ông, khai sáng một Thời Đại Minh Trị (Meiji Era) hoàng kim trong lịch sử của Xứ Phù Tang.
    Dầu rằng lúc ấy tuổi còn trẻ nhưng ông đã am tường việc triều chính để biết nghe lẽ phải và thay đổi chế độ từ quân chủ phong kiến sang quân chủ lập hiến. Bởi thế, công cuộc cải hóa hay thay đổi chính trị ở Nhật là do Nhật Hoàng và triều đình chớ không phải do dân chúng.
    Thời thập niên 1850-1860 Nhật Bản buộc phải mở các hải cảng cho nước ngoài vào buôn bán, nhiều chính khách nước này nhận định: “Nhật Bản muốn tránh tình trạng bị đô hộ thì cần có một chính quyền mạnh, hợp thời, và kỹ thuật hạng nhất của Tây phương.” Do đó vừa sau một năm lên ngôi thì Nhật Hoàng đã ký sắc lệnh cải tổ chính trị và chuyển việc điều hành quốc gia xuống cho các bộ vào năm 1868.
    Song song với việc cải tổ chính trị, Nhật hoàng đã gởi nhiều phái đoàn đi ra nước ngoài khảo sát về các chính quyền, tuyển chọn những tinh hoa tư tường của nhân lọai mang về áp dụng cho xứ sở. Bộ Giáo Dục Nhật Bản được thành lập vào năm 1871 để phát triển giáo dục theo hệ thống của Hoa Kỳ, là một nền giáo dục tự do.
    Năm 1872 phổ thông hóa quân đội, và 4 năm sau Nhật Bản bãi bỏ giai cấp Võ Sĩ Đạo (Samurai) để làm giảm đi mẫu “người hùng quân sự” trong xã hội mà thay thế bằng hình ảnh “thương gia trí thức.” Nhật Bản nhờ sĩ quan Pháp tổ chức Lục Quân, nhờ sĩ quan Anh tổ chức Hải Quân, nhờ kỹ sư Đức phụ trách công trình kiến trúc.
    Thượng Viện Nhật Bản được thành lập vào năm 1884, tổ chức nội các theo kiểu của Đức do ông Ito Hirobumi làm Thủ Tướng đầu tiên năm 1885. Bản Hiến Pháp Minh Trị là bản hiến pháp đầu tiên của Nhật Bản do Thủ Tướng Ito Hirobimi biên soạn, sau khi nghiên cứu và đúc kết các bản hiến pháp của Hoa Kỳ và Châu Âu, để ban hành vào ngày 29 tháng 11 năm 1889 tại Nhật. Nhờ vậy mà nước Nhật đã được kỹ nghệ hóa nhanh, dưới sự hướng dẫn của chính phủ bằng sự hợp thời hóa chính trị trong một xã hội thịnh vượng, ổn định và điều hòa. Nhìn chung nước Nhật đã Tây phương hóa về nhiều phương diện, đặc biệt vào Thời Đại Minh Trị đã khai sáng, đã làm cho Nhật Bản trở thành một quốc gia giàu đẹp và hùng mạnh.
    Chúng ta biết rằng, mỗi nước đều có luật pháp cai trị riêng nhưng dưới chế độ quân chủ phong kiến được gọi là pháp lệnh. Pháp lệnh thuộc mô thức cai trị một chiều, lệnh trên truyền xuống kèm theo hình phạt nếu cấp dưới không thi hành. Còn hiến pháp thuộc mô thức cai trị hai chiều, có chiều đi và chiều về, giải thích quyền hạn song phương của người cai trị và người bị trị. Sự ra đời của nền quân chủ lập hiến Nhật Bản với lý thuyết khế ước xác định chính quyền. Muốn được chính danh Nhật Hoàng phải dựa trên giao kèo, trên sự đồng thuận của toàn dân về pháp luật của thành phần cai trị thông qua Hiến Pháp Minh Trị (Meiji Contitution). Hiến pháp đã làm giảm quyền lực cai trị của vua chúa, tăng nhân quyền và tăng tự do mà dân tộc văn minh tiến bộ về chính trị dân chủ hưởng nhờ.
    Anh Quốc, Hòa Lan, Bỉ Quốc… Nhật Bản, Thái Lan, Mã Lai là những quốc gia có chính thề quân chủ lập hiến chuyển qua đại nghị theo đường hướng hòa bình, như lời triết gia Hegel: “Xã hội con người được cai trị từ một người, đến một giai cấp và đến toàn dân.” Đó là hình ảnh tiêu biểu cho một xã hội dân chủ.
    Vào thời đại công nghiệp (Industrial Age) phát triển, Nhật Bản cũng như các nước công nghiệp Tây phương, vì kinh tế đã sản xuất sản phẩm hàng loạt, cho nên họ đã cần nhiều công nhân, và cần nhiều nguyên liệu… Họ mở rộng thành phố và cần mang lương thực từ đồng quê vào đô thị, hay nhập cảng từ nước ngoài…
    Dân chúng tập trung vào việc phát triển toàn diện của nền kinh tế quốc gia, đang khi nước Nhật cần nguyên liệu để cho các nhà máy của họ hoạt động như sắt, thép, xi măng, gỗ, hóa chất, sản phẩm dầu hỏa… Vì cần tài nguyên, cần thị trường tiêu thụ và xuất cảng những sản phẩm mà Nhật Bản làm ra, cho nên họ phải gia nhập phe trục Đức – Ý – Nhật để xâm chiếm những quốc gia khác trong Đệ Nhị Thế Chiến.
    Năm 1945, sau khi Hoa Kỳ thả hai trái bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, khiến cho Nhật Hoàng Hirohito phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Nhật Hoàng còn phải qua dinh Thống Tướng Hoa Kỳ Douglas MacArthur mà trình diện định kỳ. Theo Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa Đoàn Bá Cang đã làm việc lâu năm ở Nhật Bản có đưa ra một nhận xét: “Nhật Hoàng trình diện mà không cảm thấy mất nước, không cảm thấy nhục vì ông thức thời nên ông mới cứu được nước ông. Còn người Việt Nam chúng ta thì sao?”
    Ở đời con người ta lại thường chịu chết, chớ không chịu nhục (ninh thọ tử bất ninh thọ nhục), nhưng Nhật Hoàng Hirohito, lại là người dám thực hiện việc “nhập nô xuất chủ” theo phương thức canh tân của nhà cách mạng Lý Đông A. Nhật Hoàng chấp nhận làm tù binh Hoa Kỳ để mưu tìm đường cứu dân cứu nước, đang khi từ thủ tướng và nhiều bộ trưởng Nhật Bản đã tự vẫn, vì không chịu nhẫn nhục.
    Việc đi trình diện của Nhật Hoàng cũng bị nhiều cận thần và quân dân Nhật dè bỉu chống báng. Người Nhật thời ấy đã chống vua hơn chống giặc. Hành động tự sát seppuku của đám quân phiệt cũng chỉ gây thêm hỗn loạn cho chính trường, gây thêm khổ đau cho dân chúng Nhật… Nếu Nhật Hoàng mà tự ái nghe lời bọn người quá khích, thì chắc chắn nước Nhật đã đổ vỡ, trở thành quốc gia nghèo đói như bao nước khác mà thôi.
    Nhìn lại trang sử cận đại của Nhật Bản, chúng ta nhận ra nỗi khổ tâm của Nhật Hoàng. Ông đã chấp nhận làm tù binh, thầm lặng làm cuộc trao đổi và trả giá với Thống Tướng Hoa Kỳ MacArthur để nhằm giải cứu cho Nhật Bản, rồi từ đó mà xây dựng phát triển thành một nước dân chủ đầu tiên theo Hoa Kỳ tại Châu Á.
    Nhật Hoàng là người sống với thực trạng mất nước, ông khởi công từ thực trạng đó như việc đi trình diện tướng 5 sao của Hoa Kỳ. Nhật Hoàng không nuối tiếc hão huyền, cũng không mơ mộng viển vông… Với quyết tâm cứu nước, Nhật Hoàng đã sẵn sàng thích ứng và xử dụng mọi hoàn cảnh mới, mọi điều kiện mới, mọi chướng ngại thành phương tiện để cứu dân cứu nước… và từ đó ông hướng dẫn dân nước Nhật Bản tiến lên.
    Lúc đó mọi người Nhật Bản cũng đều nghĩ rằng, Hoa Kỳ sẽ cai trị nước Nhật với khoảng thời gian tối thiểu 50 năm cho tới trăm năm. Nhưng khác với mọi người lầm tưởng, chỉ 5 năm sau, thì Hoa Kỳ trao trả độc lập của nước Nhật về cho Nhật Hoàng Hirohito.
    Vấn đề đáng nói nữa là thủ tướng tương lai Morihiro Hosokawa – cháu Thủ Tướng Fumimaro Konoe tự vẫn – cũng là người thức thời và nhẫn nhục. Ông đã hợp tác với Hoa Kỳ, và tuyển chọn số nhân vật trẻ, rồi đào tạo họ trở thành những lãnh tụ chính trị, những chính trị gia, những nhà hoạt động cho tương lai nước Nhật.
    Đang khi đó, đại đa số dân Nhật Bản lại chỉ biết căm thù Hoa Kỳ là kẻ không đội trời chung, và không tiếc lời nguyền rủa những người Nhật thức thời như Nhật Hoàng, như Morihiro Hosokawa… là “tên lông lá” hợp tác với Hoa Kỳ cầu lợi, chớ chẳng mưu cầu cứu nước cứu dân gì. Tất cả chỉ biết nghêu ngao chửi đổng!
    Cho tới khi Hiệp Ước San Francisco được ký kết, Hoa Kỳ trao trả độc lập cho Nhật Bản vào năm 1951. Lúc này mới chứng tỏ được công cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao của Nhật Hoàng và chính trị gia Nhật Bản là đúng đắn, là tài tình và mang lại thành công.
 
V. Kết Luận
 
Những người đã từng bị đại chúng khinh khi nguyền rủa… thì giờ đây lại được coi là những “Vị Cứu Tinh” của Nhật Bản. Và nước Nhật đã thay đổi nền tảng chính trị từ quân chủ mà sang dân chủ để thoát vũng lầy khủng hoảng kinh tế, và nhờ thể chế chính trị dân chủ, Nhật Bản đã thúc đẩy quốc gia phát triển toàn diện, đưa đất nước phát triển tới bước phú cường, thịnh vượng vào bậc nhất Á châu ngày nay. Quả là một bài học Toàn Dân Toàn Diện: Toàn Dân Vi Binh, Toàn Địa Vi Phòng, Toàn Tài Vi Dụng, Toàn Quốc Vi Chính... và đáng học cho chúng ta nhằm thóat cảnh nghèo nàn lạc hậu của quê hương mình.
    Và Câu giải đáp mà nhiều học giả uyên bác thời nay phải đồng ý, đó là “nền chính trị tự do dân chủ đã làm cho Nhật Bản trở thành siêu cường. Ngược lại thể chế “độc tài đảng trị” thì quốc gia ấy muôn đời nghèo đói, bất công và lạc hậu.
 

Phạm Văn Bản

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.