Hôm nay,  

Phúc Đức

06/05/202406:39:00(Xem: 2848)
Chu Duc_01

Mỗi khi tai qua nạn khỏi hay gặp một điều lành, chúng ta đều nhắc tới chữ Phúc Đức: “Nhờ phúc ông bà nên tôi vừa thoát nạn.” “Nhờ phúc nhà nên cháu vừa thi đỗ.” “Cầu phúc tổ tiên cho được mẹ tròn con vuông.”
    Nhiều ca dao tục ngữ cũng nhắc tới Phúc Đức, và khuyên chúng ta gây phúc lập đức: “Có phúc làm quan.” “Tiên tích đức hậu tầm long.” “May phúc ba đời để lại.” Mừng một sự kiện tốt đẹp bất ngờ chúng ta thường buột miệng, “Hưởng phúc!” Trái lại lời nguyền rủa nặng nề nhất cũng là câu nói: “Đồ vô phúc!”
    Làm Phúc: Phúc là điều tốt lành cho cuộc sống con người. Con người vừa được hưởng phúc, lại vừa có thể tạo ra phúc. Đang khi đức là kết quả của việc tạo phúc, mà cũng là nguyên ủy của việc hưởng phúc.
    Chủ đích của việc phúc đức, cũng như linh huấn của Chính Thuyết Tiên Rồng, là vừa làm cho chính mình được hạnh phúc, lại vừa gíup cho mọi người cũng được hưởng hạnh phúc với mình. Do đó, phúc đức là vừa do tâm thành thiện ý, lại vừa do kết qủa công việc sinh lợi cho người khác.
    Hưởng Đức: Khi làm việc phúc đức, chẳng những chúng ta giúp ích cho người, mà chính chúng ta cũng được hưởng nhờ. Làm phúc thì được hưởng đức – Lợi vật chất thì do thu góp, mà ích phúc đức thì do san sẻ.
    Chúng ta còn có thể lưu truyền phúc đức đến người khác. Do đó, con cháu được hưởng nhờ phúc đức của Tổ Tiên để lại.
    Phúc Phận: Ngòai phúc đức Tổ Tiên, con người cũng hưởng phúc do Trời ban. Nhưng Phúc Trời lại khác nhau nơi từng con người.
    Tầm độ hưởng nhờ Ơn Trời và Phúc Đức Tổ Tiên chính là phúc phận của mỗi con người. Mọi sự xảy đến trong một đời người đều do phúc phận. Cũng do phúc phận mà chúng ta có hay không, được hay mất bất cứ sự gì trên đời.
    Việc phúc đức lại có thể làm thay đổi phúc phận. Nhờ làm nhiều phúc đức, do tâm thành và do kết qủa ơn ích, số phận chúng ta trở thành tốt đẹp hơn, tai qua nạn khỏi, phúc thọ gia tăng. Tùy duyên không có nghĩa là buông xuôi chấp nhận, mà để chờ duyên là chúng ta phải luôn chuẩn bị, phải tạo điều kiện, phải cố gắng làm việc phúc đức.
    Thông thường chữ “Đức” có ý nghĩa đạo đức, nhân đức, ân đức, phúc đức. Chữ “Đức” còn có nghĩa là cái “Dụng của Đạo.” Chúng ta biết, đặc biệt theo triết lý Lão Học, đạo là cái thể của Trời Đất, còn đức là lúc đạo hoạt động, là cái dụng của đạo.
    Chúng ta có thể nói đạo là “tạo hóa” ở thể tĩnh, còn đức là “tạo hóa” ở thể động, hoạt động, là “thần lực” dựng nên vũ trụ, con người. Đức là sức mạnh của Trời! Chữ đức được Tổ Tiên ghi khắc trên mặt trống đồng Ngọc Lữ, “Mặt Trời 14 Tia.” (Thập tứ nhất tâm: 14 người mà một lòng, đồng bào, đồng là cùng và bào là bọc – từ Một Bọc Trăm Con của truyền tích Con Cháu Tiên Rồng).
    Bởi thế Phúc Đức là quan niệm gắn liền với tâm hồn và cuộc sống của người dân Việt chúng ta, chẳng những đã ăn sâu trong tư tưởng, trong tâm hồn mà lại còn bộc phát ra trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, và để giúp cho chúng ta sống “hạnh phúc.” Quan niệm Phúc Đức đã giúp cho toàn thể Dân Việt sống hạnh phúc qua bao ngàn năm, mà đã giữ trọn vẹn tâm hồn con người để làm người hạnh phúc!
    Khi nói tới phúc đức, chúng ta luôn nhớ tới Tổ Tiên Ông Bà là người khuất núi, dĩ nhiên không quên cám ơn Trời Phật, nhưng chúng ta nhận được ơn Trời Phật cũng là nhờ hồng phúc của Tổ Tiên Ông Bà. Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi khi làm việc lành điều thiện, chúng ta ý thức rằng không những “mình làm mình hưởng,” mà còn dành để phúc đức đó cho cả dòng họ con cháu hưởng nhờ, “Làm lành để đức cho con.” “Quang tiền dư hậu.” “Tiên tích đức hậu tầm long.”
    Quan niệm phúc đức đã giúp cho con người sống thật trong hiện tại, mà còn liên kết với qúa khứ vị lai, hầu sống trọn vẹn kiếp người. Do đó chúng ta có thể nói phúc đức là quan niệm sống hữu thần sâu xa, mà gần gũi với con người nhất. Quan niệm này là câu giải đáp cho họa duy vật duy lợi thời nay, mà còn giúp cho chúng ta thoát ách sống duy tâm duy linh đang làm con người coi thường thực tại hiện hữu của cuộc sống.
    Bởi thế quan niệm phúc đức của Tổ Tiên là căn bản tâm linh cho đại cuộc Giúp Dân Cứu Nước ngày nay. Trong cuộc chiến đấu, phúc đức là tiêu chuẩn để phân định rõ ràng giữa chính nghĩa hay gian tà. Tiêu chuẩn phúc đức để kiểm chứng những việc chúng ta làm là cứu dân cứu nước, hay cướp nước hại dân?
    Trong lịch sử cận đại, nhiều người ra hải ngoại cũng có thể tính chuyện cứu nước thoát ách Thực Dân Pháp, nhưng vì không xét vấn đề phúc đức như Tổ Tiên linh huấn, nên đã vô tình hay cố ý chấp nhận chủ thuyết vong bản ngoại lai. Thay vì khi trở về cứu dân cứu nước, thì thực tế họ đã làm những việc phản dân hại nước, bởi vì họ đã không phân biệt được ý niệm chính nghĩa hay gian tà.
    Giờ đây, nếu chúng ta không xét đến phúc đức ắt cũng chẳng khác những người lãnh tụ năm xưa, cũng du nhập chủ thuyết Mác – Lê ngoại lai, cũng là đoàn quân viễn chính trở về cướp nước, cướp chính quyền, rồi cũng tranh giành quyền lợi, cũng đàn áp lương dân, và có khi còn gieo tai họa nặng nề hơn các loại giặc nước hiện tại.
    Có người hỏi rằng, trong chiến tranh chém giết, trong chính trị mưu mô mà chúng ta bàn chuyện phúc đức sao? Thưa rằng nếu bắt buộc chúng ta phải chiến đấu để cứu người, giải cứu dân lành thì việc chém giết đó là việc làm phúc đức. Phúc đức không phải để tránh tác hại, dĩ nhiên chúng ta cần tránh chém giết thì càng tốt.
Nhưng khi không thể đặng đừng, chẳng những chúng ta không được quyền tránh, mà còn có bổn phận dấn thân cứu người vô tội. Việc giết giặc cứu người là việc làm phúc đức, và càng xả thân trừ ác thì phúc đức lại càng có nhiều, có đầy.
    Vì nguyên ủy của Chánh Nghĩa là Làm Việc Phúc Đức, mưu cầu hạnh phúc cho con người. Ai làm hại Con Người thì dầu đạt được quyền uy hay giàu sang tột bực như tập đòan cầm quyền cai trị hiện nay thì vẫn không có Chính Nghĩa. Trong đời sống con người Chính Nghĩa là quyết tâm đánh giặc cứu người. Và giặc là tất cả những ai hay những gì làm suy hại hạnh phúc của con người và xã hội lòai người.
    Mặc dù chính trị có mưu mô, chiến tranh có chém giết, nhưng quyền biến, mưu lược của chính trị là để củng cố xã hội, để trợ giúp cho cuộc sống của con người. Quân sự có máu lửa, chiến tranh tàn phá, nhưng Tổ Tiên cho rằng đó không phải là hiếu sát hay cưỡng bức… mà là đánh giặc nhằm giải cứu người vô tội. Trong đại cuộc Giúp Dân Cứu Nước, chúng ta ý thức rõ ràng rằng mình đang đi cứu người, cứu anh em, cứu thân nhân, cứu nhau mà hợp thành đoàn quân nhân nghĩa đi giải cứu cả một dân tộc đang bị giam hãm đọa đày. Trong lúc giải cứu dân tộc, chắc chắn có sự xô xát và tùy theo trường hợp mạnh yếu chúng ta lường trước tầm quan trọng trong việc cứu người mà chấp nhận thực thi. Trong đại cuộc Giúp Dân Cứu Nước ngày nay, bọn ác nhân cố bám vào quyền lợi riêng tư phe đảng thì tranh đấu sống còn là chuyện khó tránh. Khi đó kẻ ác thì đền tội, và người thiện thì thêm phần phúc đức. Đại cuộc Giúp Dân Cứu Nước là việc làm phúc đức hết sức to lớn, mà chúng ta khó thể tưởng tượng, như lời Tổ Tiên linh huấn, “Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người!” Dù cho có bỏ công của ra xây cất chín cảnh chùa cho tăng ni tu luyện, thì cũng không bằng làm phúc cứu cho một người.
    Thế vậy mà giờ đây chúng ta cứu cả trăm triệu con người, khi bỏ công bỏ của ra toan tính và sẵn sàng hy sinh cả tính mạng, dành để mọi khả năng để chuẩn bị tổ chức chu đáo cho đại cuộc dựng nước, thì phải nhận chân rằng đó là “Đại Phúc!” Việc làm đại phúc đó, chẳng những chúng ta được hưởng, mà như Tổ Tiên đã nói, gia đình giòng họ con cháu và toàn thể dân tộc cũng được hưởng nhờ, ngay cả những người khuất núi và con cháu chưa sinh ra: “Quang tiền dư hậu.”
    Do đó không phút giây dành để cho quê hương dân tộc là uổng phí, vì chính lúc chúng ta mưu cầu giải cứu lương dân, như Tổ Tiên xác quyết, “Đại phúc đó dân tộc cũng được hưởng nhờ!” Sở dĩ đã gần thế kỷ qua, Dân Nước chưa được giải cứu là vì chúng ta chưa có phúc đức, chưa đủ phúc đức, chưa góp thành đại phúc. Khi chúng ta quan tâm giải cứu đồng bào, hay nói đơn giản hơn, khi nhớ tới đồng đội bị bắn ngã gục, tù đày cải tạo, hay lời trăn trối của người thân, lời thề khi bỏ nước ra đi. Và khi chúng ta nhớ tới đồng bào rên xiết dưới ách giặc mà quyết tâm hành động cứu giúp thì đó phải là đại phúc. Và khi đóng góp đủ đại phúc thì tất nhiên chúng ta sẽ cứu được dân nước.
    Con người phàm tục như chúng ta mà còn biết quặn đau trước nỗi thống khổ của dân tộc mình, thì không lý Đức Quốc Tổ và Hồn Thiêng Sông Núi hay Tổ Tiên Ông Bà lại làm ngơ, phó mặc con cháu chịu cảnh đọa đày? Sở dĩ các Đấng Linh Thiêng chưa thể ra tay oai linh trừ bạo cứu dân cứu nước, cũng chỉ vì tại chúng ta. Chúng ta không đóng góp phúc đức, không học hỏi, không có đủ phúc đức thì chưa xứng đáng làm tác nhân cho các Ngài xử dụng vào đại cuộc Giúp Dân Cứu Nước để gọi là, “Bất chiến tự nhiên thành.”
    Nói theo kiểu Trạng Trình, “Bất chiến tự nhiên thành!” Sở dĩ được gọi là “bất chiến” vì trong việc “tham chiến” với Đạo Binh Nhân Nghĩa của chúng ta đã nhận sự phù trợ của các Đấng Linh Thiêng. Với sự tham chiến cùng bao lớp con cháu trừ ác cứu dân được gọi là “bất chiến,” tất nhiên chúng ta không chỉ có được “sức thần” (sức mạnh, thần lực) mà còn đủ tài đủ trí, thông toàn và thành công thắng giặc.
    Nhìn vào lịch sử thì những cuộc chiến thắng lớn thường kết tụ tinh anh sau vài trăm năm mới có, nếu ước tính từ Chiến Thắng Đống Đa lịch sử thì tới nay cũng đã đủ thời gian cho “thiên tài cứu nước” sản sinh. Muốn thế, chúng ta phải đóng góp phúc đức, và “cộng tài cộng đức” tức là “cộng nghiệp,” là tổ chức.
    Tổ chức hợp thời đại thì mới thành công. Kể từ Chiến Thắng Đống Đa đã hơn hai trăm mùa xuân trôi qua với bao vật đổi sao dời, nhưng chiến công hiển hách của người anh hùng áo vải khởi nghĩa của đất Tây Sơn vào Tết Kỷ Dậu năm xưa vẫn oai linh ngời sáng. Và ngọn lửa Cứu Nước ấy luôn luôn bừng cháy nung đúc tình yêu nước thương dân của bao thanh niên hào kiệt anh tài, noi gương Đại Đế Quang Trung mở ra trang sử hiển hách và dựng lại Kỳ Đài Bách Việt, hay được gọi là Hoa Tiên Rồng Mở Hội của ngày nay.
    Và trong nỗi đau quốc nạn, mỗi người chúng ta cần suy niệm phúc đức của Tổ Tiên, lúc ấy chúng ta mới vững dạ sắt gan, bừng lên hùng khí mà vượt qua giai đoạn chiến đấu khó khăn nhất, chính là chiến thắng ngay tự trong tâm hồn của mổi người mà ra, mà có, mà thành.
    Nhiều người cũng đang chú tâm tìm kiếm “minh quân, thánh chúa.” Xin hỏi hễ là con người thì ai có đủ tài đức lớn để cứu được toàn dân? Nếu có, phải chăng chúng ta nhờ có phúc đức cùng nhau đóng góp trong tổ chức mà người lãnh đạo được bầu làm đại diện.
    Các Vị Anh Hùng trong lịch sử được gọi là đủ tài, đủ đức cũng do Các Ngài cộng tài, cộng đức trong những tổ chức của Các Ngài. Và Phúc Đức ngày nay qủa là một tiêu chuẩn, là thước đo được dùng trong một tổ chức để xét đúng sai, chánh tà. Phúc đức là quan niệm căn bản cho mọi hoạt động cứu nước của chúng ta ngày nay. Do đó chúng ta ý thức rõ ràng rằng, mỗi phút giây, mỗi hành động lo liệu cho quê hương đồng bào là những việc đại phúc. 
    Bằng nhờ vào quan niệm phúc đức mà chúng ta không còn bơ vơ hay chán nản lạc lõng trong cuộc sống gọi là tẻ nhạt thường nhật, vì mỗi phút giây dành để cho quê hương, là đại phúc. Phúc đức đó, chẳng những chính mình, gia đình dòng tộc được hưởng, mà quê hương dân tộc cũng được hưởng nhờ. Bởi có đủ phúc đức thì mới cứu được dân nước. Và như thế, các tổ chức chính danh là tụ điểm giúp nhau thêm tài thêm đức, và cộng tài cộng đức để giải cứu đồng bào.
    Mỗi phút giây cho quê hương là đại phúc.
    Xin góp tài đức làm sức mạnh diệt giặc.
    Quê Hương Việt Nam đang chờ.
 

– Phạm Văn Bản

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.