Hôm nay,  

Văn Hóa ‘Kệ’

08/08/202500:00:00(Xem: 3937)

van hoa ke
Hình minh họa: ảnh gốc từ istockphoto.
 
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình.

Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai:

– Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn.

Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, chỉ tay lên bức thư pháp dán lệch trên tường:

“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).

Chị tin vào điều đó – nhẹ nhàng, không cố thuyết phục ai, cũng không cần người khác đồng tình. Chị viết cũng như làm việc - sao cho đủ sống, đủ tiêu. Không màng giàu sang, không mưu cầu in sách. Ai biết đến thì mừng. Ai khen thì thích. Bài được đăng thì vui. Không đăng cũng chẳng sao. – “Mình không viết hơn ai. Viết chỉ để viết. Mà nếu không ai đọc, thì thôi”, chị nói.

Lối viết của chị – và cả cách sống nữa – nhẹ nhàng, thong thả, vừa đủ để không tệ, không đủ để gọi là hay. Chị tự hào cho rằng đó là lối sống tự tại. Mọi chuyện chỉ cần không thừa, không thiếu, không gấp. Chẳng việc gì phải tới nơi tới chốn cho mệt thân. Như thể sống chỉ cần nổi trên mặt nước – không chìm là may, còn trôi về đâu thì… kệ.

Đôi khi tôi tự hỏi lối sống đó sẽ đưa chị đi đâu, có làm chị an vui. Mỗi lần đọc bài chị viết, tôi thấy – như một dòng nước không rõ nguồn – chảy nhẹ qua trang giấy, rồi trôi tuột. Mỗi khi nhớ đến chị, tôi nhớ đến cái “kệ” – không phải cái kệ sách còn rất nhiều cuốn chị “không có thì giờ” đọc, mà là cái ‘kệ” chị khiêng đặt vào mọi khía cạnh ngõ ngách trong đời: “Kệ bà nó. Chết thằng tây nào đâu chứ”, chị luôn vui vẻ nói thế.

Làm lưng chừng, sống lừng khừng

Không ít người gọi đó là ‘bí quyết’ sống. Làm cho xong việc. Nói cho có chuyện. Học cho có bằng cấp. Tài nghệ “trời cho” sẽ giúp họ che lấp những khiếm khuyết. Mà dĩ nhiên, chị bạn tôi ít khi thấy mình thiếu sót. Bài viết có người đọc, rồi lại có người ‘like’, đủ để ‘tự sướng’, “đòi hỏi gì nữa,” chị dài giọng.

Lối làm vừa đủ, lối sống lưng chừng dần trở thành một thứ triết lý ngầm: ai làm hơn thì bị cho là bon chen, ai làm kỹ thì bị bảo là cầu toàn thái quá, ai tươm tất, gọn gàng là sống hình thức “bề ngoài”, ai cầu tiến là sân si, ai đặt chuẩn mực tự động bị xếp vào hạng người “quá cao” khó hòa hợp.

Trong chiếc áo khoác mang tên “tự tại”, cái không-tới-nơi bỗng trở thành một lựa chọn sống ‘sâu sắc’.

Nhiều người biện minh: xã hội này vốn không công bằng, làm nhiều chưa chắc được gì, cố gắng dễ thành uổng phí. Làm đại khái lại là sống khôn ngoan. Có thể họ đã từng mơ, từng dốc lòng, từng lao vào đời với tin yêu rồi bị dập tắt, bị coi thường, bị làm ngơ. Cũng có thể họ chỉ không đủ sức vượt qua, nên họ thu mình lại – không hẳn vì lười, mà vì sợ bị tổn thương thêm một lần nữa. Cái kệ trở thành cái vỏ – che đậy một niềm tin đã từng rạn vỡ.

Cũng có người biện minh kiểu hay-dở, xấu-đẹp, cao-thấp tùy cách nhìn của mỗi người. Miễn là sống đúng với “chính mình”. Miễn là hạnh phúc, là bình yên trong lòng. Làm theo khả năng, sống theo bản năng – là đủ. Tự mãn với cái gọi là “chân thật với bản thân” nên không thấy nhu cầu cần vươn lên. “Trèo cao té đau”, họ thường nói.  Nhưng cái “mình là chính mình” mà họ vịn vào – đôi khi chỉ là cái cớ để xoa dịu lòng tự ái, một thứ tự tôn khoác áo tự ti. Như người cộng sản khi vào Sài Gòn sau 1975 – bất cứ thứ gì họ không có hay không “với tới”, họ nhanh chóng liệt chúng vào sản phẩm đồi trụy của Mỹ ngụy, cấm không đụng tới.

Tự nhủ những điều trên mức mặc định là không cần thiết hay không “màng tới”, người ta yên tâm mặc kệ, để lối sống dễ dãi trở thành thói quen. Điều đáng lo không chỉ là mất đi đam mê, hoài bão, mà là mất luôn cảm giác cần đi tới nơi tới chốn, cần làm công việc đủ trách nhiệm. Không dừng lại sửa một câu. Không cần rà soát lỗi. Không cảm nhận cảm xúc. Để hấp tấp trở thành nhịp sống, lâu dần, cái "làm cho xong" trở thành bình thường. Và người ta ngộ nhận sự lè phè, thờ ơ, làm biếng là biết sống, biết an vui.

Chị bạn tôi có lần than thở thế giới bây giờ nhanh quá, làm gì cũng thiếu “chất lặng”. Chị rủ tôi đi khóa thiền ba ngày. Tôi từ chối vì đúng ngày làm báo. Chị phẩy tay: – “Có gì mà ‘hệ trọng’ dữ. Để chị giúp em hôm nay, ngoáy cái xong liền”. Chị muốn tôi đi cùng, để thỉnh thoảng nếu “chán” hai chị em còn có thể lẻn ra xe ngồi... tán dóc. Một điều chị không thể hiểu, vấn đề không nằm ở thế giới, mà là ở chính bản thân, kể cả khi chị muốn lặn sâu hơn, thói quen sống trên bề mặt vẫn khiến chị lềnh bềnh.

Vượt Lên Chính Mình

“Chúng ta là kết quả của những gì mình lặp đi lặp lại. Sự xuất sắc, vì thế, không phải là hành động nhất thời, mà là sự tập luyện.”
– Aristotle.

Có người vẽ mãi vẽ hoài không xong một bức tranh. Mỗi ngày lại sửa, mỗi tuần lại thay màu sắc, đổi ánh sáng. Ba năm trôi qua, người ta tưởng ông đã bỏ ngang. Nhưng rồi bức tranh hoàn thành – là tác phẩm để đời The Last Supper của Leonardo da Vinci.

Có người viết mãi một bản nhạc, mỗi lần mỗi bôi xóa, mỗi sửa, bẻ gãy giai điệu cũ. Giai điệu trong đầu luôn chạy đè lên giai điệu đã viết xuống. Ông viết, xóa, viết, xóa, viết lại. Không phải từ cảm hứng, mà từ sự vật lộn với trí óc. Bản giao hưởng số 5 của Beethoven ra đời – một trong những tác phẩm vĩ đại nhất lịch sử – là kết quả của sự không ngừng thử, không ngừng sai, không ngừng bắt đầu lại.
Trong lần làm việc thâu đĩa nhạc “Gội Đầu-Bay” của Trần Dạ Từ, tôi có dịp làm việc với một vài ca sĩ, từ những giọng hát mới đến những ca sĩ thượng thặng trong dòng âm nhạc Việt. Khi tất cả mọi người khác đã hài lòng với những bài hát đã thâu của mình, Khánh Ly vẫn tiếp tục ra vào phòng thâu, hát lại, làm lại, hát lại, làm lại nữa. Cuối cùng khi bài hát đã được thâu ‘hoàn chỉnh’, Cô lại nói: ‘Các anh chị xin tiếp tục nghe lại, còn gì cần sửa thì sẽ sửa, phải sửa.’ Tôi vẫn nghe nhiều người nói Khánh Ly có giọng hát trời phú, riêng tôi hiểu để đạt đến vị trí của mình, Cô không dựa vào tài năng trời phú, mà vào sự nghiêm chỉnh, siêng năng, lương tâm nghề nghiệp, tôn trọng thính giả, và lòng tự trọng - luôn đặt cho chính mình tiêu chuẩn cao nhất, hoàn mỹ nhất.

Trong tòa soạn Việt Báo có một người luôn được mọi người gọi đùa là "Ông Từ giữ chùa" – không phải vì ngày nào Ông cũng đến sớm, về trễ, hiện diện bất kể giờ nào; cũng không vì Ông kiên trì, tỉ mỉ, không bỏ qua một chi tiết nào dù nhỏ nhất, mà vì Ông không bao giờ ngưng sửa "sản phẩm cuối cùng". Báo lên khuôn rồi, Ông vẫn còn tiếp tục chỉnh sửa. Có khi đứng chờ báo in ra ở nhà in, đọc lại thấy còn có thể sửa một câu, ông nằng nặc đòi bỏ tiền túi ra in lại. Hỏi vì sao phải "khổ" thế – đâu ai thấy khác biệt? Ông trả lời: "Tôi thấy." Ai làm việc với ông đều nhớ mãi bài học về sự nghiêm cẩn trong từng việc nhỏ, nhất là đối với bản thân, vượt lên chính mình, luôn làm hết sức có thể. Mọi người tuy càm ràm, nhưng ai nấy đều hiểu nhờ những nguyên tắc không kệ, không thỏa hiệp, tờ Việt Báo luôn ở cấp bậc chuyên nghiệp, và cái nghề này vẫn còn giữ được một chuẩn mực đúng phẩm giá.

Tự mãn khoác áo tự tại

Khi dễ dãi với chính mình, người ta dần dễ dãi với mọi thứ xung quanh.

Một người nói năng lủng củng vẫn được khen là “dễ thương”. Một bài nói chuyện không chuẩn bị trước, thiếu đầu đuôi, vẫn được cho là “có tâm”. Một tổng thống phát ngôn sai ngữ pháp, lời lẽ ngây ngô thô thiển, vừa thiếu chữ vừa tự cao tự đại – vẫn được tung hô là “nói thật”. Từ việc cho qua những lỗi căn bản, người ta dần bỏ qua luôn cả điều quan trọng hơn: sự trung thực, sự tử tế, sự sâu sắc. Và khi dễ dãi đã thành thói quen, không còn ai nhận ra đó là dễ dãi nữa.

“Tuân tử khuyến học” – không có công mài sắc, sao có ngày nên kim? Không đủ trí tuệ căn bản để tự soi xét, người ta dễ lầm giữa sơ sài và giản dị, giữa tùy tiện và tự nhiên. Và khi cái dở không còn bị nhận ra là dở, nó trở thành thước đo mới – rồi lan rộng, rồi bám chặt như một nếp sống.

Dân gian gọi đó là “ếch ngồi đáy giếng” – thấy trời chỉ nhỏ bằng miệng giếng, và tưởng rằng thế giới bao trọn trong đó. Miệng giếng càng hẹp, sự tự mãn càng lớn.

Trong xã hội hiện nay, lắm người viện dẫn triết lý “biết đủ” để sống an nhiên. Nhưng nếu không biết rõ “đủ” là gì, không phân biệt được đâu là giới hạn, đâu là khả năng, đâu là cái cớ để dừng lại – thì cái gọi là “biết đủ” ấy thật ra chỉ là một kiểu tự mãn ngọt ngào. Khi đó, sự tự tại không còn là thanh thản – mà là tự xoa dịu; không phải là bình an – mà là né tránh.

Và “sống vừa đủ” trở thành cái bẫy trói buột khả năng con người.

Bề Mặt và Chiều Sâu

Sống trong thời đại thông tin, con người ngày càng sống trên bề mặt.

Đọc tin thì chỉ đọc tựa, quá lắm là đọc bản AI tóm tắt. Du lịch thì nhét vào thật nhiều danh lam thắng cảnh chỉ đủ giờ để chụp hình. Học thì lướt video, ghi chú vội vài dòng. Làm việc chỉ vừa đủ để khỏi bị xếp nhắc. Mọi thứ đều chỉ “đủ dùng”, “đủ biết”, “đủ quen”, “đủ vui”. Cái “đủ” ấy – là cái đủ qua loa – đủ để tạo thành những phiên bản đại khái của cuộc đời.

Và người ta sống giữa trăm nghìn thứ biết, chuyện gì cũng biết, nhưng hiếm khi biết rõ điều gì. Thay vì nhận ra rằng mình chỉ đang nỗi trên bề mặt biển thông tin – người ta viện cớ không đủ thời gian, hoặc không còn thói quen – để dừng lại và tìm hiểu. Phản ứng nhanh dần thay thế cho suy nghĩ kỹ. Một bài viết hay chỉ cần đánh giá qua số lượt ‘like’, một câu chuyện thật bị bỏ qua vì không đủ tít giật gân. Những điều phức tạp bị lướt qua, còn cái dễ hiểu – dù vô nghĩa – lại lan truyền nhanh chóng. Cái cạn thắng cái sâu. Cái rỗng át cái đầy.

Cái “kệ” giờ đây không chỉ nằm trong căn gác nhỏ của một người viết, mà len vào khắp nơi: từ phòng họp hành chính đến giảng đường đại học, từ phòng treo tranh đến chương trình nhạc hội, từ bản tin truyền hình cho đến lời ăn tiếng nói thường ngày. Và mỗi khi một người quyết định “kệ”, thế giới xung quanh lại mất đi một phần độ sâu.

Điều nguy hiểm là khi sống quá lâu trên bề mặt, con người không chỉ đánh mất khả năng chịu đựng chiều sâu, mà còn quên mất rằng mình từng có nó. Không phải vì không còn cảm xúc, mà vì thiếu kiên nhẫn để lắng lại. Chiều sâu đòi hỏi thời gian, nỗ lực, và cả sự can đảm để đối diện với chính mình. Trong khi bề mặt thì dễ hơn – nhanh, tiện, và không đau.

Kệ hay không kệ

Không ai bắt buộc chúng ta phải theo đuổi sự xuất sắc. Nhưng mỗi lần buông tay quá sớm, mỗi lần gật đầu với cái-không-tới mà không còn cảm thấy áy náy lương tâm, mỗi khi hài lòng với cái “tạm đủ” để phô trương chút tài mọn, là mỗi lần chúng ta dọn đường cho cái "kệ" trở thành mặc định.

Có lẽ chị bạn tôi – người viết trên căn gác – cũng chẳng muốn trở thành nhà văn nhà báo gì. Không phải vì chị không có tài, mà vì chị đã quen với sự “tự tại” – như một vỏ bọc cho những giới hạn chị không muốn vượt qua. Cho đến khi nào chị viết không vì thói quen cầm bút, mà vì một điều buộc mình phải đào sâu, phải gắng sức, phải thành thật đến tận cùng – thì lúc đó, ý tưởng mới chắp cánh đưa chị vượt khỏi cái ngưỡng giới hạn tự mãn với ‘chính mình’.

Stephen King viết: “Complacency—that’s what kills you.” Không phải thất bại, không phải bị từ chối, mà chính sự tự bằng lòng với cái-chưa-tới của bản thân – mới âm thầm giết chết tri thức con người.

Nina HB Lê

Ý kiến bạn đọc
09/08/202507:47:37
Khách
Bài viết hay. Sâu sắc. Đọc thích ghê!
Nina nên viết nhiều thêm!
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.