Hôm nay,  

Xung Đột Vì Dầu Hỏa

15/03/200500:00:00(Xem: 14750)
Tuần qua, khi giá dầu thô mấp mé đỉnh 55 đô/thùng và nạn hải tặc dồn dập xảy ra tại eo biển Malacca, thì mâu thuẫn bất ngờ lại bùng nổ giữa Indonesia và Malaysia về quyền khai thác dầu khí ngoài khơi. VN sẽ ra sao"
Diễn đàn Kinh tế đài RFA sẽ đề cập tới mâu thuẫn, thậm chí nguy cơ xung đột, liên hệ đến chủ quyền và dầu khí tại vùng Đông Á, qua cuộc phỏng vấn kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa, do Việt Long thực hiện như sau.
Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, hôm Thứ Sáu 11, quan hệ giữa Indonesia và Malaysia bỗng căng thẳng khi Ngoại trưởng Malaysia tuyên bố là hai nước có thể lâm chiến vì mâu thuẫn liên hệ đến một giếng dầu ngoài biển. Câu hỏi đáng chú ý cho toàn vùng và cho cả Việt Nam là dầu khí có thể là đầu mối tranh chấp hay xung đột tại Đông Nam Á không"… Xin ông trước hết cho thiùnh giả biết về bối cảnh của vấn đề ấy.
-- Vụ tranh chấp manh nha từ lâu và hôm 16 Tháng Hai đã thành vấn đề nóng khi quốc doanh dầu khí Malaysia là Petronas cùng tổ hợp Royal/Dutch Shell ký hợp đồng liên doanh sản xuất giếng dầu Ambalat ngoài biển Sulawesi, gần tỉnh East Kalimantan của Indonesia và gần bang Sabat của Malaysia. Phía Indonesia xác nhận đấy là giếng dầu của họ mà từ tháng 12 năm ngoái đã ký hợp đồng cho phép tập đoàn Unocal khai thác.
Quan hệ đôi bên thêm căng thẳng hôm mùng hai, khi Indonesia cho chiến hạm và chiến đấu cơ F-16 tới vùng ấy, nơi hải đội Malaysia đang tuần duyên. Lãnh đạo hải quân Jakarta còn tuyên bố là Indonesia "không để mất một tấc đất hay một giọt nước biển vào tay ngoại bang" và khi biểu tình chống Malaysia đã diễn ra tại Indonesia. Thực ra, từ vài năm nay, quan hệ giữa Jakarta và Kuala Lumpur suy đồi vì Malaysia truy lùng di dân lậu để kiếm việc tại Malaysia - đa số là dân Indonesia - và vì Jakarta đòi chủ quyền trên hai đảo nhỏ là Sipadan và Ligitan mà Malaysia nói là của mình.
Vì vậy, sau ba ngày thăm viếng Jakarta và gặp cả Tổng thống Indonesia, hôm 11 vừa qua, Ngoại trưởng Syed Hamid Albar nói đến nguy cơ chiến tranh vì giếng dầu ngoài biển. Dù ta khó tin là hai bên sẽ lâm chiến và bề nào sẽ còn gặp nhau thảo luận vào hai ngày 22-23 tới đây, mâu thuẫn này cho thấy vai trò ngày càng quan trọng của dầu khí trong quan hệ giữa các nước, và khiến ta liên tưởng đến trường hợp của Việt Nam.
Hỏi: Đào sâu về vụ tranh chấp, xin ông cho biết thêm về hồ sơ này, chứ chẳng lẽ hai sáng lập viên của Hiệp hội ASEAN lại có thể xung đột vì một giếng dầu"
-- Đây là hồ sơ sâu xa từ gần hai chục năm trước. Malaysia phân định chủ quyền ngoài khơi bằng cách vạch ra từ thềm lục địa, còn Indonesia thì đòi chủ quyền theo Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển; hai lối tính lãnh hải ấy đã trùng nhau trên một khu vực xác định là có dầu khí, trong đó có bloc dầu Ambalat. Đó là chuyện xa. Chuyện gần là năm 1999 tập đoàn Royal/Dutch Shell ký hợp đồng với Indonesia để khai thác giếng ấy; khi thấy không có lợi thì năm 2001 họ bán lại quyền đó cho một tổ hợp Ý Đại Lợi. Bây giờ, sau khi cho Unocal khai thác thì Indonesia có cảm tưởng là Royal/Dutch Shell lấy lại hồ sơ kỹ thuật của dự án cũ đã làm với mình còn Malaysia thì đổi tên giếng dầu này để xoá vết tích cũ. Sự nghi ngờ là yếu tố tâm lý trong hoàn cảnh hai chính quyềøn đang có nhu cầu củng cố thế lực chính trị ở bên trong.
Hỏi: Trong khi đó, dầu khí đang trở thành nhu cầu sinh tử cho khu vực"
-- Vâng, bao trùm lên tất cả, là Á châu đang có yêu cầu lớn về dầu khí. Khu vực này có bốn nước sản xuất dầu khí đáng kể là Trung Quốc, Indonesia, Malaysia và Brunei. Còn Việt Nam, với trữ lượng khoảng 600 triệu thùng và nhật lượng dưới 350.000 thùng mỗi ngày thì chưa đáng kể. Cả khu vực chỉ có Brunei và Malaysia là dư dầu xuất khẩu, chừng gần triệu thùng một ngày; còn lại, tất cả - kể cả Indonesia từ 2004 - đều phải nhập. Nhiều nhất, lên tới 14 triệu thùng một ngày là của Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Nam Hàn và Đài Loan. Khi giá dầu tăng vì số cầu rất lớn thì một số giếng dầu tưởng là có năng suất kém cũng thành hấp dẫn, chưa kể là tiến bộ kỹ thuật ngày nay cho phép cải tiến việc đào dầu ngoài khơi. Trong bối cảnh ấy, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Đông Nam Á được xác định là có tiềm năng về dầu khí, cả dầu thô lẫn khí đốt. Ngoài ra, đây lại là trục vận chuyển hàng hóa từ Âu châu, Ấn Độ dương và Úc châu lên Đông Bắc Á, nên trở thành mối quan tâm cho ngần ấy quốc gia trong khu vực, từ Nhật, Úc, đến Trung Quốc, Hoa Kỳ lẫn Ấn Độ, như hai vụ hải tặc vừa xảy ra hôm cuối tuần và hôm Thứ Hai đã cho thấy.
Hỏi: Và ta trở lại một mâu thuẫn khác trong vùng liên hệ đến dầu khí và Việt Nam. Đó là tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
-- Tháng 11 năm ngoái, ta đã đề cập tới hồ sơ này khi Bắc Kinh đưa dàn khoan từ Thượng Hải xuống khai thác dầu ngay trên vùng quần đảo Hoàng Sa, tại một vị trí cách bờ biển Việt Nam chưa đến 120 cây số, cách đảo Hải Nam 123 cây số. Sau đó là vụ hải quân Trung Quốc sát hại chín ngư phủ Việt Nam ngoài khơi Thanh Hóa. Trước đó, đầu tháng Chín có vụ Bắc Kinh thỏa thuận cùng khai thác với Philippines dầu khí trên quần đảo Trường Sa, một thỏa thuận mà Hà Nội phản đối, cũng một cách yếu ớt và sau cũng đành theo. Trung Quốc cưỡng đoạt của Việt Nam, thời Việt Nam Cộng Hòa, quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974, hai lần xung đột với Việt Nam tại Trường Sa, năm 1988 và 1992, lần nào Việt Nam cũng bại, chưa nói đến chiến tranh năm 1979. Việt Nam nay đã khác, chính quyền chỉ có cái thế với dân đen, chứ với bên ngoài thì không đáng kể. Trong khi yêu cầu về năng lượng lẫn tham vọng trở thành cường quốc đại dương khiến Bắc Kinh gây sức ép cho Việt Nam mà giới lãnh đạo Hà Nội tránh nói đến, chỉ ca tụng quan hệ dù sao vẫn hữu nghị giữa hai nước.

Hỏi: Nhìn vào khía cạnh kinh tế, thì năng lượng là vấn đề như thế nào với Trung Quốc mà có thể thành đầu mối tranh chấp thậm chí xung đột với các lân bang"
-- Trung Quốc là xứ "tân tòng" theo kinh tế thị trường, có hiệu năng tiêu thụ năng lượng kém nên cần nhiều năng lượng, như dầu hỏa, khí đốt và than đá, thủy điện, để nuôi bộ máy sản xuất. Như trong hai năm 2002 và 2003, khi yêu cầu năng lượng của cả Á châu tăng gấp đôi thì Trung Quốc tăng gấp bảy, mỗi ngày cần năm triệu rưởi thùng dầu thô, nên năm 2003 phải nhập khẩu hơn 730 triệu thùng. Yêu cầu này sẽ còn tăng, bộ Năng lượng Mỹ dự phóng là 20 năm nữa, đến năm 2025 Trung Quốc cần 11 triệu thùng mỗi ngày, sẽ cần nhập bảy triệu rưởi thùng mỗi ngày mới đủ. Từ hai năm nay, Trung Quốc bung ra khắp nơi, mở chiến dịch vận động ngoại giao và ký mấy chục hợp đồng để bảo đảm nguồn cung cấp cho tương lai…
Khi nhìn vào sản lượng thấp của Việt Nam hiện nay, họ thấy trữ lượng dầu thô ngoài Đông hải, mà họ gọi là Nam Hải, thực ra hấp dẫn hơn. Vì trực tiếp khai thác được, mà lại còn có thể khống chế luồng giao lưu hàng hóa tại Đông Nam Á để giữ ưu thế trong toàn khu vực Đông Á. Và họ lại có quan hệ khá đặc biệt với giới lãnh đạo Hà Nội.
Hỏi: Nhưng, lập trường của Đông Nam Á và khối ASEAN ra sao đối với vấn đề ấy"
-- Hiệp hội ASEAN quy tụ 10 xứ Đông Nam Á thực ra chỉ là câu lạc bộ làm ăn, chứ bất lực về an ninh hay chiến lược mà cũng chẳng có được sự nhất trí tối thiểu. Mâu thuẫn giữa các nước sáng lập với nhau là một thí dụ. Malaysia có mâu thuẫn với Thái Lan vì chính sách đối xử với người Hồi giáo tại các tỉnh miền Nam của Thái; Indonesia mâu thuẫn với Malaysia vì di dân lao động và vì giếng dầu ngoài biển như ta vừa nói. Các hội viên lại có quy tắc không xen lấn vào chuyện nội bộ của nhau, như không đồng ý với nhau về nạn độc tài tại Miến Điện và gặp mâu thuẫn với Âu châu. Nhờ vậy, Bắc Kinh dễ "bẻ đũa từng chiếc" để chia rẽ các nước qua thỏa ước song phương, như đã có với Philippines hay với Thái, Miến Điện và ba nước Việt, Miên, Lào về sông Mekong.
Hỏi: Đó là nhược điểm của ASEAN, còn sách lược của Trung Quốc thì ra sao"
-- Tôi xin tự giới hạn vào phạm vi dầu khí. Nói về tranh chấp Trường Sa mà quốc tế gọi là Spratly, ta có sáu nước đòi chủ quyền từng phần hay toàn phần, là Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia và Brunei. Malaysia tránh đụng độ từ đầu; còn Philippines thì sau khi xung đột với Bắc Kinh và cầu cứu Hoa Kỳ, cuối cùng lại thoái bộ. Mùng hai tháng Chín năm ngoái, Tổng thống Gloria Macapagal-Arroyo gặp Chủ tịch Hồ Cẩm Đào tại Bắc Kinh và hai nước ký kết một số thỏa ước liên hợp tìm kiếm và khai thác dầu khí tại đây. Sau khi phản đối Bắc Kinh và Manila, cuối cùng Việt Nam cũng bọc xuôi theo vì hôm 13 vừa qua, ba công ty quốc doanh về dầu khí của Trung Quốc, Philippines và Việt Nam lại thỏa thuận cùng hợp tác kỹ thuật để thăm dò địa chất trên vùng quần đảo Trường Sa. Ta cần thấy rằng 5-10 năm tới, quốc doanh dầu khí Trung Quốc đã có trình độ công nghệ cao hơn, Hải quân Trung Quốc cũng đã có sức mạnh khác. Lúc ấy, Bắc Kinh có thể dẹp luôn các thỏa thuận song phương hay đa phương để khai thác lấy một mình, mà các nước liên hệ chẳng làm gì nổi.
Hỏi: Nếu vậy, Việt Nam có thể làm được những gì, và vận động quốc tế ra sao"
-- Câu trả lời thực ra không giản dị vì có khác biệt về nhận thức của lãnh đạo Hà Nội nói riêng và của Việt Nam nói chung. Hà Nội không dám hoặc không muốn gây vấn đề với Bắc Kinh vì chỉ tập trung chú ý vào quyền lãnh đạo của họ, dù Việt Nam có nhiều cách xử thế khác nếu đánh giá đúng tương quan quốc tế về quyền lợi. Tôi xin đơn cử một thí dụ. Tại Đông Á, Nhật Bản mới là cường quốc kinh tế thực sự có tiềm lực lớn về cả ngoại giao lẫn quân sự. Nhật cũng cần năng lượng và 80% dầu khí nhập khẩu phải đi qua vùng biển mà Việt Nam đang tranh chấp với Bắc Kinh. Nhật là xứ dân chủ nên khó có phản ứng phát xít quân phiệt như trong quá khứ và nay ưu tư về sự bành trướng của Trung Quốc trên vùng sinh tử kinh tế của mình. Vì vậy mới là trở lực cho việc Bắc Kinh đòi thống hợp Đài Loan, như đạo luật "phản phân liệt" mà Quốc hội Trung Quốc vừa biểu quyết ngày hôm qua đã cho thấy.
Riêng với Việt Nam, Nhật là nước đầu tiên vận động viện trợ khi Việt Nam còn bị Mỹ cấm vận và hiện vẫn là nước cấp viện lớn nhất. Việc tăng cường hợp tác với Nhật là cần thiết về cả an ninh lẫn kinh tế và dầu khí, nếu lãnh đạo Hà Nội vượt qua được nỗi sợ hãi Bắc Kinh và phản ứng tàn dư của ý thức hệ. Thí dụ như giữa Nhật và Ấn Độ thì cứ thiên về Ấn vì mối cảm tình của Ấn với xã hội chủ nghĩa. Nói chung, khi hữu sự, người ta chỉ bênh vực mình khi có quyền lợi gắn bó với mình. Khi họ vào làm ăn để gây dựng quyền lợi ấy mà mình chỉ nghĩ đến việc móc túi vặt, hoặc cứ sợ quan điểm của họ về dân chủ hay nhân quyền thì tự mình leo nằm lên thớt, một mình. Điều ấy cũng đúng trong quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ hay Úc Đại Lợi, hay với Pháp. Hà Nội rất chuộng Pháp vì lập trường chống Mỹ, mà không thấy rằng Pháp ưu tiên buôn bán với Trung Quốc vì có lợi hơn là với Việt Nam, và Pháp còn đang muốn bán võ khí cho Bắc Kinh: võ khí ấy có khi sẽ được sử dụng ngoài biển Đông của Việt Nam….

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.