Hôm nay,  

Hát Với Solidarnosc

21/12/200600:00:00(Xem: 9866)

Hát với Solidarnosc -- 25 năm sau từ Genève Thụy Sĩ và Varsovie Ba Lan  nhìn về Việt Nam 

Trong một Đêm Giáng Sinh đầu thập niên 80, một nhà thơ Việt Nam tị nạn Cộng sản, mang theo mảnh đất quê hương thân thiết khi vượt biển, đã "hát với anh chị em Ba Lan, hát với Việt Nam tôi"... Hát với Solidarnosc… một bài thơ đã được đài Âu châu Tự do (Radio Europe Libre) giới thiệu với nhân dân Ba Lan đang tranh đấu "cho Hy Vọng, Mùa Xuân, Phẩm Giá Con Người". Lúc đó, anh chị em Ba Lan, Công đoàn Solidarnosc, bị chế độ "phát xít đỏ", do Liên Sô cưỡng đặt, đàn áp khốc liệt. Báo mật vụ công an cộng sản Ba Lan đã lên tiếng công kích tác giả bài thơ và buổi phát thanh của đài Âu châu Tự do. Thính giả người Ba Lan đã cắt bài báo đó rồi kín đáo gởi cho đài. Hát với Solidarnosc được bà Hoàng Nguyên, một thuyền nhân tị nạn Cộng sản định cư tại Genève Thụy Sĩ, chuyển dịch ra tiếng Pháp, gây nên sự xúc động sâu xa nơi nhiều người đọc, nhứt là cộng đồng Ba Lan lưu vong cùng giới trí thức, nhà văn, nhà thơ Pháp. Triết gia Leszek Kolakowski, nguyên phát ngôn nhân Phong trào Dân chủ Đối lập, cố vấn cho Solidarnosc, dạy tại trường đại học Oxford, cho biết ông đã đọc bài thơ đó giữa mùa đông ở Anh quốc trong lúc quê hương còn bị đọa đày khổ nhục. Tháng 6 năm 1999, ông đã đọc một bài diễn văn thật quan trọng để khai mạc Đại Hội Thế Giới Văn Bút Quốc Tế ở Varsovie, nước Ba Lan hậu cộng sản. Dịp đó là lần đầu tiên ông gặp nhà thơ Việt Nam. Từ Vatican, Đức Giáo Hoàng Jean Paul II gởi lời cám ơn và khích lệ tác giả bài thơ cùng người dịch. Văn thư bày tỏ xúc động và cảm tình còn đến từ hai nhà văn và triết gia Simone de Beauvoir và Raymond Aron, nhà thơ Pierre Emmanuel, nhà văn Jean d’Ormesson, nhà thơ Léopold Sédar Senghor (cựu tổng thống Sénégal), sử gia Tadeusz Wyrwa, nhà trí thức Paul Thibaud, giám đốc chủ biên tạp chí Esprit, mục sư Eric Fuchs, giáo sư Khoa Thần học đại học Lausanne, v.v. Chưa kể chính giới và báo chí.

Hai mươi lăm năm sau, chúng tôi phổ biến bài thơ Hát với Solidarnosc của thi hữu Nguyên Hoàng Bảo Việt để chào mừng Hội Nghị Quốc Tế về Quyền Lao Động Việt Nam đã diễn ra tại trụ sở Thượng viện giữa thủ đô Warszawa (Varsovie) của nước Ba Lan Tự Do, từ ngày 28 đến 30 tháng 10 năm 2006. Theo Thông cáo của Ban Tổ chức, Hội Nghị được sự đồng tình bảo trợ của nhiều nhà lập pháp Ba Lan, Công đoàn Đoàn Kết Solidarnosc và Ủy Ban Bảo Vệ Công Nhân Ba Lan. Hát với Solidarnosc mười lăm năm sau khi khối Cộng sản Liên Sô bị tan vỡ. Chúng tôi muốn cùng với tác giả bài thơ gởi về Việt Nam, niềm Tin chung vào sự tất thắng cuối cùng của Chính nghĩa Dân tộc và Nhân bản. Trên đất nước bất hạnh và giữa lòng Dân tộc bất khuất đó, những người thật lòng yêu nước thương đồng bào, bất chấp sự trấn áp tàn bạo của chế độ độc tài cộng sản, tiếp tục kiên cường tranh đấu cho Nhân Quyền, cho Tự Do và Dân Chủ, cho Hy Vọng Mùa Xuân, Phẩm Giá Con Người.

Sắp hết năm, với những lời Cầu Nguyện Bình An, tâm tưởng chúng tôi hướng về những tù nhân chính trị, ngôn luận và lương tâm Việt Nam. Nhà báo Nguyễn Vũ Bình hay nhà thơ Vũ Đình Thụy là những trường hợp tiêu biểu cho đông đảo bạn tù không thể kể hết. Hướng về thân nhân, gia đình của tất cả tù nhân nói trên. Trong những người đáng cảm phục và quý trọng đó có bà Bùi Thị Kim Ngân và hai cháu gái Nguyễn Vũ Thanh Hà và Nguyễn Vũ Thuần Linh. Hướng về những nhà đối kháng dân chủ, bênh vực Nhân Quyền - tu sĩ, công nông, giáo chức, sinh viên, văn giới, nhà báo hay luật sư - đang bị hành hạ, làm nhục và biệt lập trên quê hương thân yêu của mình.

 Kính gởi đến quý bạn đọc và diễn đàn những lời Cầu Chúc Tốt Lành như ý.                     Genève mùa Giáng Sinh 2006

Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ và Trung tâm nhà văn Việt Nam lưu vong.

Hát với Solidarnosc

Một thuyền nhân Việt Nam xin được góp tiếng hát

Với anh chị em Ba Lan đêm Chúa ra đời

Với Popieluszko cùng Solidarnosc

Hát cho Hy Vọng, Mùa Xuân, Phẩm Giá Con Người.

 

Polska ơi! Polska ơi! Polska ơi! bất khuất!*

Cảm xúc nào hâm nóng trái tim tôi

Chúng ta từng sống và từng chết

Ngoài chiến trường và trong ngục tù

Giữa trại tập trung cuối trời hoang đảo

Trên điêu tàn đổ nát sáu triệu nấm mồ

Nhú lên lớp lớp những mầm non xanh biếc

Tung cánh ước mơ đến một thế giới thanh bình

Hố bất công nhờ phù sa khỏa lấp

Lửa bạo hành sẽ tàn lụi dưới cơn mưa

Vườn Nhân ái góp bàn tay vun xới

Người người nhìn quen với nét mặt tin yêu

Chúng ta cũng biết xót thương biết khóc

Dàn trải tâm tình qua điệu múa lời ca

Sống với nhau một đời chân thật.

Sau hơn ba mươi năm áp bức đọa đày

Kiếp trâu ngựa tìm đâu thấy ngày mai

Muốn Tự do không thể van xin mà được

Ai hái trái cây hạnh phúc ta gieo trồng

Đất nước ta cớ sao Liên sô làm chủ

Ta gặt cho ai lúa chín trên đồng"

Hướng về đâu những chuyến tàu máy móc

Toa xe đầy ắp mồ hôi nước mắt lao công

Nhà ta suốt mùa rét thiếu than để sưởi

Vợ ta buồn đau giấu kín trong lòng

Con ta gầy yếu không đủ sữa đủ thuốc

Đảng họp bàn yến tiệc dân chúng lầm than

Cha mẹ dạy ta giúp người hàm oan cô thế

Đảng hô hào hận thù giai cấp đấu tranh

Đê vỡ trong lòng dân, sóng cuộn lên nỗi bất bình...

 

Từ ngày đó... từ cuộc nổi dậy ở Poznan

Giặc bố trí hàng vạn phi cơ đại bác

Hỏa tiễn hạch tâm, cả trăm sư đoàn thiết giáp

Chẳng thay đổi được gì cơn ác mộng triền miên

Không bao giờ chúng ngủ được yên

Chúng thảm sát bạn ta ở Berlin, ở Budapest

Ở Prague mùa Xuân, ở Huế Tết Mậu Thân

Không bỏ sót một ai bị nghi ngờ chống đối

Tu sĩ, công nông, giáo chức, sinh viên, văn giới

Từ Vientiane, Phnom Penh rồi đến Kaboul

Nuôi ảo tưởng dìm chúng ta xuống bùn đen tủi nhục

Nhưng áp lực nào lay chuyển nổi Ba Lan!

Vì từ ngày đó... từ cuộc nổi dậy ở Poznan

Đã nối tiếp Gdansk, Cracovie, Katowice

Solidarnosc, mười triệu anh em liên kết

Như gió ngàn, như sóng biển, như trời sao

Trái tim năm châu đập cùng nhịp với nhau

Hòa lẫn tiếng hát ngày đêm vang lên từ hầm mỏ

Từ nhà máy, công trường, bến tàu, góc phố

Đến sân ga, tòa báo, lớp học, giáo đường

Nghe thấy không hỡi người lính trẻ đi tuần đêm"

Hãy nhận rõ hình thù bóng đen đế quốc

Đang giẵm nát những búp hồng Tự do Độc lập

Đang dập tắt những chuỗi cười Hy vọng Tương lai.

Tháng Tư đen, Sài Gòn, Việt Nam tôi bị bức tử

Suýt chết giữa biển Đông phép lạ nào giúp tôi hồi sinh

Tôi đi tới ... hỡi những bạn tù chưa hề biết mặt!

Từ Hà Nội đến Bắc Kinh, Bình Nhưỡng đến Lhassa

Từ  Belgrade đến Sofia, La Havane đến Bucarest

Tôi đi tới Grenade với Federico Garcia Lorca

Santiago với Pablo Neruda, Terezin với Robert Desnos

Tôi đi tới Paris của Victor Hugo và Paul Éluard

Tôi đi tới Nữu Ước của nữ thần Tự do

Mùa giông bão vẫn giơ cao ngọn đuốc 

Tôi muốn có mặt mỗi lần nghe gọi tên

Làm tiếng dội lời anh chị em từ ngục tối.

 

Polska ơi!  Polska ơi! Polska ơi! bất khuất! *

Dưới đáy sâu bất hạnh lòng dũng cảm vô biên

Trí nhớ chợt sáng lên hình ảnh những người đã chết

Bị ám sát, mất tích...các liệt sĩ vô danh

Cho tôi sức sống mấy ngàn năm lịch sử

Cho tôi điềm tĩnh viết nốt bài thơ phẫn nộ

Những ai chưa dám bênh vực tình cảm con người

Hãy xích lại gần, nhìn sự thật hôm nay

Đừng quay lưng nín câm, cúi đầu đồng lõa

Đây tiếng giày Zomo đạp tung từng cánh cửa

Tiếng lục soát bắt người như săn thú giữa rừng hoang

Tiếng roi vọt điên cuồng lẫn tiếng nghiến răng

Tiếng vợ kêu cứu cho chồng, tiếng trẻ thơ khóc ngất

Tiếng giây xích chiến xa lạnh lùng nghiền nát

Ôi những phiến tâm hồn trong suốt thơ ngây!

Tiếng bịt miệng, tiếng giãy giụa la hét mệt nhoài

Tiếng bóp cổ, tiếng cười rú lên hung bạo

Tiếng tuyết rơi nặng nề như trời mưa bão

Tiếng thời gian dừng lại rồi bỗng vắng im.

Tiếng súng xa không ngớt vọng về theo mỗi bước đêm

Đêm Guernica...đêm Oradour...đêm Auschwitz

Sau Tiệp Khắc, đêm Ba Lan khởi đầu từ Munich

Trong chuỗi dài những biến cố không thể nào quên

Ở Wujeck giặc bắn thẳng vào anh em công nhân

Máu lại đổ ở Gdansk vì những viên đạn sô viết

Mẹ Ba Lan ơi! cho tôi được lau nước mắt

Được đau nơi vết thương giữa trái tim Người

Tôi biết trước một lần nữa tôi sẽ chết

Úp mặt trên vai anh em tôi yêu quý vô cùng

Bằng hữu thủy chung rạng ngời ánh mặt trời chân lý

Sẽ bốc cháy biến thành những hạt muối sương

Làm tan rã lớp máu đen đóng giá trên bờ Baltique

Máu vô tội đêm giới nghiêm phát xít

Phản chiếu lên sắc mặt một dân tộc chịu tang

Nghe thấy không hỡi người lính trẻ Ba Lan"

Chopin đang nhỏ lệ xuống từng nốt nhạc

Lệ nhân ái chứa chan trong lồng ngực

Như tiếng chim lạc bầy gãy cánh kêu thương

Con suối vui quen cũng đổi giọng đau buồn

Lúc chuyến tàu tốc hành đến gần khu hầm mỏ

Tiếng còi tưởng niệm thay cho hồi chuông báo tử

Tội ác ngất trời, bè lũ phản bội quê hương!

Em chẳng còn nhớ sao" biết bao tấm gương

Vì Tổ quốc đồng bào hy sinh tuẫn tiết

Varsovie từng đẩy lui hồng quân Bolcheviks**

Tiến đến Vistule, cuối cùng giặc sẽ vỡ tan.

 

Đêm nay từ hố thẳm địa ngục trần gian

Chúng ta vững tin mai sau đời sẽ nở đẹp

Buổi đoàn viên tay nắm tay liên hoan múa hát

Bông lúa và búp hồng, hương sắc tương lai

Tuổi thơ ơi! em không còn quỳ gối đánh giày

Không còn nữa cuộc đời quên phẩm giá

Tranh Hòa bình không vẽ giữa rào kẽm gai

Không còn trại cải tạo khổ sai, bức tường ô nhục

Nhịp cầu bao dung bắc lại giữa lòng người

Nhà thương điên thôi ám ảnh lương tâm trí thức

Nói lên sự thật về đế quốc và tay sai

Ký giả thi văn sĩ không còn bẻ cong ngòi bút

Ta mài thật sắc khơi thật sâu ý chí này!

 

Hát với anh chị em Ba Lan, hát với Việt Nam tôi

Hát với lòng tin cảm thông đổi thay thế giới

Đi với chúng ta còn có ức triệu vì sao

Những ngọn nến tuy mong manh sẽ cháy sáng rất lâu

Những ánh mắt đang tìm gặp nhau để nối tiếp

Giặc có thể tra tấn lưu đày thủ tiêu bắn giết

Đêm vẫn là đêm thù nghịch dối trá bất công

Nhưng tâm hồn dân tộc Ba Lan đã được nhân lên

Với kích thước vũ trụ không gian hùng vĩ

Gom lá chết đau thương đốt ngọn đuốc soi đường

Sau mỗi lần vấp ngã bằng hữu dìu nhau đứng dậy

Đêm đông nào ngăn được cành khô nẫy lộc đâm chồi

Xuân Nhân loại mỉm cười, gót sen thanh thoát...

 

Cho tôi được góp vào bản hợp ca Hành khúc

Thêm một tiếng Hy Vọng nữa, Polska ơi! bất khuất!

Hát với Solidarnosc, tôi không hát một mình

Đêm dã man này sẽ lùi bước trước bình minh.

Nguyên Hoàng Bảo Việt (Nol 1981)

* Polska: tên nước Ba Lan.

* Năm 1920, Lénine đã xua đạo quân Bolcheviks vào tận Varsovie. Hồng quân phải rút lui sau khi bị thảm bại trước cuộc kháng chiến anh dũng của dân tộc Ba Lan.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trước những nghi ngại “Hoa Kỳ có còn là đồng minh đáng tin cậy hay không?” thì chúng ta có thể khẳng định rằng Mỹ hay bất kỳ quốc gia nào trong khối tự do đều vẫn là những người bạn đồng hành tốt trong hành trình đi tìm tự do và canh tân đất nước, miễn là chúng ta không quên những bài học đã nêu để phát huy tiềm năng của chính mình, bảo vệ quyền lợi quốc gia, và đạt tới mục tiêu tự do, ấm no, hạnh phúc cho dân tộc.
Bằng chứng: ”Sự bùng phát mạnh của làn sóng Covid-19 lần thứ tư cùng với các đợt giãn cách liên tiếp khiến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (DN) bị ảnh hưởng nặng nề, đặc biệt là các địa phương phía Nam. Theo Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong 8/2021 là 85,5 nghìn doanh nghiệp, tăng 24,2% so với cùng kỳ năm 2020.
Mặc dù rõ ràng là Hoa Kỳ có thể điều hành công việc ra khỏi Afghanistan tốt đẹp hơn, nhưng thảm kịch xảy ra vào tháng này đã kéo dài trong 20 năm. Ngay từ đầu, Mỹ và các đồng minh đã chấp nhận - và không bao giờ xem lại - một chiến lược xây dựng nhà nước từ trên xuống dưới luôn được xem là thất bại như do định mệnh đã an bài. Hoa Kỳ đã xâm chiếm Afghanistan 20 năm trước với hy vọng tái thiết đất nước, nay đã trở thành một tai họa cho thế giới và chính người dân của họ. Trước đợt tăng quân năm 2009, Tướng Stanley McChrystal giải thích, mục tiêu là “chính phủ Afghanistan kiểm soát toàn vẹn lãnh thổ để hỗ trợ ổn định khu vực và ngăn chặn việc sử dụng này cho chủ nghĩa khủng bố quốc tế.“ Hiện nay, với việc thiệt mạng hơn 100.000 và thất thoát khoảng 2 nghìn tỷ đô la, tất cả nước Mỹ phải thể hiện cho nỗ lực của mình là cảnh của một cuộc tranh giành tuyệt vọng để chạy ra khỏi đất nước trong tháng này - một sự sụp đổ nhục nhã gợi nhớ đến sự sụp đổ của Sài Gòn năm 1975. Điều sai lầ
Gặp gỡ và nói chuyện nhiều với những người thông dịch viên Afghanistan, tôi mới hiểu thêm rất nhiều về dân tộc họ và biết rằng chính phủ Afghanistan là một chính phủ tham nhũng lan tràn từ cấp thấp cho đến cấp cao, mức độ nào họ cũng có thể ăn hối lộ được, chỉ có người dân thấp cổ bé miệng là khổ. Người Mỹ biết rất rõ nhưng vẫn không làm gì hết. Bản thân chúng tôi khi ra vào đất nước này, cũng phải đóng cho những nhân viên hải quan đủ thứ tiền, mà phải bằng tiền đô la Mỹ, mệnh giá 100 đồng mới tinh, cũ hoặc dính 1 vết mực, họ không nhận và không chịu ký giấy và đóng mộc. Nói để thấy rằng chúng ta, người Mỹ, hy sinh tiền bạc, xương máu cho họ, thật không đáng chút nào. Rút ra khỏi đất nước này là đúng và là một việc phải làm ngay.
Cứ tới cuối tuần, dân Tây réo nhau xuống đường biểu tình chống chương trình chích ngừa dịch vũ hán và, tiếp theo, chống biện pháp kiểm soát có chích hay không bằng «thông hành y tế» (pass-sanitaire), tờ giấy có dấu hiệu đã chích ngừa của Cơ quan Bảo hiểm sức khỏe cấp qua Cơ quan tổ chức chích hoặc y sĩ gia đình hay dược sĩ.
Đầu năm 70, bạn đồng minh Huê kỳ quyết định bỏ rơi VNCH, không thực hiện cam kết rút quân, Việt-nam hóa chiến tranh, mặc nhiên giao Miền nam cho Hà nội. Ngày 30/04/75, quân Bắt Việt tiến vào Sài gòn, ngỡ ngàng. Dân chúng hoảng loạn bỏ chạy. Nhưng 14 năm sau thất bại nhục nhã ở Việt nam, bức tường Bá-linh bổng sụp đổ, kéo theo cộng sản Liên xô xuống hố, giúp Huê kỳ kết thúc cuộc chiến tranh lạnh làm kẻ chiến thắng.
Người Mỹ nói “Nothing is certain but tax and death” (Không ai tránh khỏi thuế và chết). Thuế mang ý nghĩa đặc biệt vì lịch sử nước Mỹ được thành hình từ ngày dân chúng thuộc địa nổi loạn chống nhà nước bảo hộ Anh Hoàng với khẩu hiệu bất hủ “Taxation without representation is tyranny” (Bị đánh thuế mà không được có đại biểu là bạo quyền.) Cho nên mỗi kỳ bầu cử đều tranh luận gay gắt về thuế má – nhưng không chỉ là cải cọ vô bổ vì khi thành luật sẽ theo đó móc từ túi tiền của mỗi người dân nhiều hay ít.
Đảng cộng sản VN cũng “khởi nghiệp” với những tuyên ngôn và khẩu hiệu nghe (tử tế) tương tự. Họ hô hào chống lại áp bức, bất công, kỳ thị … Nhờ vậy, họ vận động được quần chúng - kể cả những thành phần thiểu số, “ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng” - nổi dậy “giành lấy chính quyền về tay nhân dân.” Chả phải vô cớ mà Cách Mạng Tháng Tám vẫn được mệnh danh là “Cuộc Khởi Nghĩa Của Những Người Tay Không.” Chỉ có điều đáng phàn nàn là sau khi “những người tay không” nắm được quyền bính trong tay thì họ (tức khắc) hành xử như một đám côn đồ, đối với tất cả mọi thành phần dân tộc
Người lính Mỹ, trong nhân dáng hiên ngang, với những bước chân chắc nịch, đôi mắt nhìn thẳng và kỹ thuật tác chiến tuyệt vời. Nhưng người lính Mỹ cũng có trái tim biết rung động, biết nhớ thương, biết đau khổ như bạn và tôi. Xin đừng “thần thánh hóa” hoặc đòi hỏi những điều mà người lính Mỹ không thể thực hiện được; vì người lính Mỹ còn phải chu toàn bổ phận đối với người hôn phối, gia đình và người thân. Xin hãy nghĩ đến những trái tim tan vỡ trong mỗi gia đình, khi một người lính Mỹ gục ngã!
Như vậy, tuy không công khai, nhưng Bà Harris có quan tâm đến nhân quyền, các quyền tự do và vai trò của các tổ chức Xã hội Dân sự ở Việt Nam, một việc mà đảng và nhà nước CSVN luôn luôn chống đối và đàn áp. Tuy nhiên, tất cả báo Việt Nam, kể cả những báo “ôn hòa” như Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Lao Động và Người Lao Động đều không đăng lời tuyên bố chống Trung Hoa của Bà Phó Tổng thống Harris.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.