Hôm nay,  

Đông Á Phục Hưng

20/09/200600:00:00(Xem: 8680)

Báo cáo của WB về Đông Á nói đến khía cạnh thiếu lạc quan là Đông Á bị tụt hậu trong nỗ lực diệt trừ tham nhũng. Và VN đứng hạng thấp trong nỗ lực ấy nếu ta đối chiếu với báo cáo về chế độ cai trị vừa công bố...

Trong hai ngày 19 và 20 tại Singapore, Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF và Ngân hàng Thế giới có hội nghị thường niên với sự tham dự của đại biểu 184 quốc gia hội viên. Nhân dịp này, trong tiết mục chuyên đề do Việt Long thực hiện sau đây, Diễn đàn Kinh tế sẽ trao đổi với kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa về lượng định của Ngân hàng Thế giới về sự phục hưng của Đông Á.

- Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, hội nghị thường niên năm nay của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF và Ngân hàng Thế giới được tổ chức trong hai ngày 19 và 20 tại Singapore. Vào dịp này, hai định chế tài chính quốc tế trên đã công bố một số báo cáo về tình hình kinh tế tài chính quốc tế để chuẩn bị nghị trình thảo luận. Ông có nhận định sơ khởi ra sao về hội nghị này"

- Hội nghị năm nay của hai định chế tài chính thế giới sẽ đề cập tới một chục tiết mục chính mà chúng ta sẽ nói sau. Riêng tôi thì chú ý nhất đến sự kiện là hai định chế này đã được các nước dân chủ Tây phương thành lập cách đây đúng 60 năm trong hoàn cảnh tái thiết thế giới sau Thế chiến II với những mục tiêu nay đã đổi thay nên việc cải tổ đang trở thành đề mục đáng chú ý. Đáng chú ý nhất là việc cải tổ Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF vì cấu trúc tài chính thế giới đã thay đổi cùng với những rủi ro kinh tế tài chính của thế kỷ 21. Một trong những thay đổi do phía Hoa Kỳ đề nghị là phải có sự tham gia rộng rãi và quyết định hơn của các nước đang phát triển trong cơ chế điều hành IMF.

Về phần mình, là định chế viện trợ phát triển cho các nước nghèo, Ngân hàng Thế giới cũng được yêu cầu tập trung chú ý nhiều hơn vào những cản trở phát triển tại các quốc gia này nên đã công bố một số phúc trình liên hệ, ngoài những báo cáo thường lệ về kinh tế thế giới.

- Hỏi: Chúng tôi xin đề nghị là kỳ này ta nói về những báo cáo ấy mà xin ông trình bày sơ lược và sẽ đề cập tới báo cáo ông cho là đáng chú ý.

- Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Paul Wolfowitz, Ngân hàng Thế giới chú ý đến hai hiện tượng có mối liên hệ gần như hữu cơ là chế độ cai trị và nạn tham nhũng. Cuộc khảo sát năm nay về chế độ cai trị trong 216 quốc gia trên thế giới cho thấy Việt Nam chưa được cải tiến nhiều so với năm ngoái. Phúc trình về điều kiện kinh doanh cũng vậy, so với năm ngoái thì năm 2006 này Việt Nam tụt mất sáu hạng, từ hạng 98 sụt xuống 104. Hôm Chủ nhật vừa qua, để chuẩn bị cho hội nghị, Ngân hàng Thế giới cũng có cuộc hội thảo về việc bài trừ tham nhũng, với chủ đề là muốn đẩy lui sự nghèo đói thì phải xoá bỏ được nạn tham nhũng.

Về các phúc trình, nói chung, hai định chế tài chính này đã công bố khoảng một chục báo cáo lớn nhỏ khác nhau. Như về viễn ảnh phát triển kinh tế thế giới thì đề mục năm nay là đầu tư vào y tế, giáo dục và huấn nghệ cho giới trẻ, cho các thanh thiếu niên từ 12 đến 24 tuổi. Theo hướng ấy, Ngân hàng thế giới trình bày tiến độ của mình trong việc viện trợ cho giáo dục. Ngoài ra còn có báo cáo về việc viện trợ cho các nước có lợi tức trung bình, tức là các quốc gia đã tương đối phát triển trong các nước nghèo. Cũng đáng chú ý là Ngân hàng Thế giới tường trình về hồ sơ năng lượng sạch cho châu Phi và những diễn biến của vòng đàm phán Doha và việc viện trợ để phát triển ngoại thương.

- Hỏi: Về phần ông, ông chú ý đến báo cáo nào nhất"

- Vì năm nay hội nghị thường niên của hai định chế nói trên được tổ chức tại Đông Á và để kiểm điểm lại tình hình kể từ vụ khủng hoảng Đông Á năm 1997, Ngân hàng Thế giới có công bố một phúc trình mà họ gọi là sự "Phục hưng của Đông Á Thái bình dương". Tôi chú ý tới tài liệu nghiên cứu này hơn cả vì tính chất quá lạc quan của nó.

- Hỏi: Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về một số tiết mục của bản báo cáo ấy. Nhưng trước hết, vì sao ông lại cho là quá lạc quan"

- Mươi năm trước, Ngân hàng Thế giới vừa công bố một báo cáo đầy khích lệ về tám nền  kinh tế Đông Á thì khủng hoảng tài chính rồi kinh tế bùng nổ tại năm trong số tám nước ấy. Tháng Hai năm 1997, Quỹ Tiền tệ Quốc tế vừa có phúc trình ngợi khen Thái Lan thì năm tháng sau, cuộc khủng hoảng ngoại hối từ Thái Lan đã châm ngòi cho khủng hoảng tài chính và kinh tế cho Indonesia, Malaysia, Philippines và Nam Hàn. Trên đại thể thì các nước Đông Á đã vượt qua được khủng hoảng trong khoảng thời gian ngắn hơn vụ Mỹ châu La tinh bị vỡ nợ vào thập niên 80, nhưng chẳng vì vậy mà mình nên quên là sự biến bất ngờ vẫn có thể xảy ra!

Tôi còn chú ý tới bản phúc trình về Đông Á Phục Hưng vì một lý do chuyên môn khác là sau vụ khủng hoảng, cũng chính Ngân hàng Thế giới đã lượng định rằng khủng hoảng sở dĩ lây lan nhanh vì các nước Đông Á có mối quan hệ về ngoại thương quá khắng khít với nhau, cụ thể là gần hai phần ba khối lượng xuất nhập khẩu của các quốc gia này là trao đổi với nhau nên một xứ bị khủng hoảng là gây ngay khó khăn cho xứ khác. Tình hình ngày nay vẫn chưa thay đổi và một yếu tố dây chuyền lần này sẽ là đầu tư từ nước này qua nước kia, chủ yếu là giữa Trung Quốc, Hong Kong, Nhật Bản, Singapore và Nam Hàn.

- Hỏi: Bây giờ, chúng ta sẽ đi vào nội dung của phúc trình ấy, vì sao họ lại gọi là Phục hưng"

- Hai tác giả chủ biên bản phúc trình ấy có thể là những người lãng mạn. Họ nói đến hiện tượng Phục hưng của Âu châu vào thế kỷ 15, khi chấn động chính trị tại Contanstinople, nay là Istanbul của xứ Turkey, khiến giới trí thức và khoa học tỵ nạn qua Ý và mở ra trào lưu tư tưởng mới với những kiến thức mới đã lan truyền khắp Đông Âu và Tây Âu. Từ đấy, Âu châu thay đổi và thành bá chủ toàn cầu trong năm thế kỷ. Từ kinh nghiệm ấy của Âu châu, người ta cũng mong rằng Đông Á sẽ trải qua một thời Phục hưng khi tiếp nhận kiến thức mới từ Hoa Kỳ và Âu châu để làm đổi thay toàn khu vực, từ kinh tế cho đến nhận thức.

Sở dĩ như vậy vì người ta thấy tình hình kinh tế và lợi tức cùa Đông Á đã gia tăng rất mạnh từ khoảng 15 năm nay, với sản lượng từ một ngàn 200 tỷ năm 1990 nay đã lên tới 4.000 tỷ đô la. Và đặc biệt là Đông Á đã hồi phục sau cuộc khủng hoảng năm 1997-1998. Từ đấy, bản phúc trình còn dự báo là nếu chiều hướng này tiếp tục thì đến năm 2030, sức nặng kinh tế Đông Á sẽ chiếm tỷ trọng là 43% toàn cầu, bằng với sức nặng của khu vực này vào năm 1820, trước khi Đông Á bị suy sụp trong gần hai thế kỷ. Chúng ta cần tỉnh táo đặt vấn đề vào bối cảnh của nó vì năm 1820 ấy, Việt Nam bước vào thời Minh Mạng và thực ra không có sức năng kinh tế đáng kể tại Đông Á, cũng như ngày nay mà thôi.

- Hỏi: Ông không có vẻ gì là lạc quan tin tưởng lắm"

Tôi thiển nghĩ rằng lãnh đạo không nên uống nước đường và dư luận cần nhìn ra mặt trái của mọi huy chương hay khẩu hiệu. Nếu Việt Nam giữ được tốc độ tăng trưởng hiện nay thì năm năm nữa mới đứng vào loại quốc gia có mức lợi tức gọi là trung bình của thế giới và vẫn thua kém nhiều nước Đông Nam Á, chưa nói gì đến Đông Bắc Á. Mà từ nay đến đấy và khi thuộc loại trung bình về lợi tức thì thói quen về tiêu thụ, sản xuất và nhất là tư duy sẽ thay đổi, với lắm thách thức mới cho giới lãnh đạo. Trong khi ấy, nhiều chứng tật cố hữu của chiến lược kinh tế Đông Á, và cũng là cái nhân của khủng hoảng Đông Á năm 1997, thì vẫn còn nguyên tại Việt Nam.

- Hỏi: Những chứng tật đó là gì, ông có thể kể ra được không"

- Về kinh tế thì quá chú ý đến xuất nhập khẩu mà lãng quên thị trường nội địa và thành phần dân chúng ở thôn quê không được tiếp cận với thị trường bên ngoài. Về kinh doanh là việc ngân hàng tài trợ các doanh nghiệp bất kể lời lỗ và rủi ro vì đó là chính sách của nhà nước. Về tổ chức thì có chủ nghĩa "tư bản thân tộc" hay chủ nghĩa tư bản của tay chân nhà nước, với hậu quả là nạn tham nhũng phổ biến và bất công lan rộng. Đi sớm nhất theo chiến lược ấy, Nhật Bản đã bị khủng hoảng mất 15 năm nay mới hồi phục sau những cải cách gắt gao trong cơ chế chính trị. Tại các xứ Đông Á khác, khủng hoảng kinh tế đã dẫn tới khủng hoảng chính trị và họ sở dĩ hồi phục được cũng nhờ chấp nhận dân chủ để có lãnh đạo mới hầu tìm giải pháp khác. Việt Nam chưa có được điều kiện chính trị ấy và một khi mở cửa để hội nhập với thế giới như các nước kia thì sẽ bị nhiều chấn động mạnh mà chưa được chuẩn bị để đối phó.

- Hỏi: Thế bản báo cáo về Phục hưng Đông Á có đề cập tới những vấn đề trên hay không"

- Người ta có nhắc tới những đổi thay về tư duy, qua trao đổi thương mại, qua tăng trưởng kinh tế với vai trò quan trọng hơn của tư doanh - quan trọng hơn vai trò của nhà nước. Người ta cũng đã thấy sự bấp bênh đầy rủi ro của chế độ ngoại hối cứng ngắc và hệ thống ngân hàng ngập nợ, nguồn dự trữ ngoại tệ ít ỏi. Do đó, các nước Đông Á có cố khắc phục loại vấn đề ấy. Bản phúc trình cũng đưa ra nhiều cảnh báo mà Việt Nam có thể chưa thấy hoặc đã quên.

- Hỏi: Những lời cảnh báo ấy là gì, có lẽ chúng ta phải đề cập tới ở đây.

- Sau một giai đoạn tăng trưởng mạnh vì khởi đi từ một mức quá thấp, tốc độ tăng trưởng có thể giảm. Đồng thời, sau khi mở cửa ra thị trường thế giới với nỗ lực đa diện hoá nền sản xuất thì tiến trình đa diện hoá ấy cũng chậm lại vì nước nào cũng tìm ra lợi thế tương đối của mình và điều ấy sẽ ảnh hưởng tới cơ chế sản xuất và việc làm trong nước. Thứ ba, khi đã vượt ngưỡng cửa nghèo đói thì yếu tố làm gia tăng sản xuất là đầu tư sẽ giảm tầm quan trọng và đòi hỏi nhiều sáng kiến mới, nghĩa là cũng đòi hỏi nhiều quyền tự do hơn, từ tự do thông tin đến tự do quyết định về kinh doanh - sản xuất những gì, bán cho ai, v.v… Thứ tư, hình thái sản xuất thay đổi sẽ đòi hỏi những thay đổi về giáo dục và đào tạo, khi ấy, vấn đề không còn là đào tạo ra nhân công có tay nghề thích hợp mà là nhân viên có khả năng tiên liệu và trù hoạch sản xuất. Đấy là những điều dễ thấy nhất và Việt Nam có thể sớm thấy hoặc sớm bị nay mai.

- Hỏi: Ngoài ra, bản báo cáo này còn có những điểm gì đáng cho Việt Nam chú ý"

- Tôi cho rằng đáng chú ý nhất là việc Việt Nam phải hội nhập vào thế giới, trên bình diện toàn cầu, đồng thời hội nhập vào khu vực Đông Á, nhưng quan trọng hơn cả là phải có sự hội nhập ngay bên trong xã hội, giữa các thành phần dân chúng và các địa phương với nhau. Một thí dụ là 60% lượng đầu tư của nước ngoài vào Việt nam lại tập trung vào hai thành phố lớn nhất là Saigòn và Hà Nội, và vào tỉnh Đồng Nai. Những địa phương khác thì sao" Thiếu sự hội nhập nội bộ thì bất công xã hội sẽ tiếp tục đào sâu và bất công nhất là nạn tham nhũng. Chúng ta đang thấy một biểu hiện của vấn đề ấy khi nông dân phải biểu tình liên tục và kinh nghiệm của Đông Á, vốn là khu vực nổi tiếng về tham nhũng, cho thấy người ta chỉ có thể giải trừ được tham nhũng khi giảm được quyền hạn của nhà nước, tức là khi có thêm dân chủ. Báo cáo lạc quan của Ngân hàng Thế giới về Đông Á có nói đến một khía cạnh thiếu lạc quan là Đông Á bị tụt hậu trong nỗ lực diệt trừ tham nhũng sau vụ khủng hoảng. Và Việt Nam đứng hạng thấp trong nỗ lực ấy nếu ta đối chiếu với báo cáo về chế độ cai trị vừa công bố.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.