Hôm nay,  

Đạo Tắc Equator

04/10/200600:00:00(Xem: 8865)

... vì sao các nước nghèo như Việt Nam chưa cho dân lập các hội thiện nguyện để bảo vệ quyền lợi của mình...

Khi tìm hiểu về đề tài "Cải cách Ngân hàng Thế giới", mục Diễn đàn Kinh tế tuần trước của chúng tôi đã trình bày sơ lược về những quy tắc hành xử văn minh gọi là Equator Principles. Kỳ này, chúng ta tìm hiểu tiếp về các quy tắc ấy trong phần trao đổi sau đây giữa kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa với Nguyễn An, người thực hiện chương trình.

- Hỏi: Thưa ông, trong tiết mục chuyên đề Diễn đàn Kinh tế vào tuần trước, ông có trình bày về chiều hướng cải cách Ngân hàng Thế giới nhân kỳ họp thường niên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF và Ngân hàng Thế giới tại Singapore. Chúng tôi xin đề nghị là tuần này, ta tiếp tục tìm hiểu về chiều hướng cải cách ấy và nhất là về quy tắc hành xử gọi là Equator Principles.

- Để thính giả tiện theo dõi chương trình, trước hết, xin ông trình bày tóm lược một số ý chính của kỳ trước liên hệ đến việc cải cách Ngân hàng Thế giới.

Thưa 60 năm sau khi được thành lập, hai định chế tài chính quốc tế thoát thai từ thỏa ước Bretton Wood thành hình vào cuối Thế chiến II là Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF và Ngân hàng Thế giới đã phải xử lý với những đổi thay của thế giới. Trong kỳ họp thường viên vừa qua tại Singapore, người ta bắt đầu cải tổ cơ chế quyết định của IMF trong một kế hoạch sẽ kéo dài hai năm. Vì vậy, chúng ta mới nói đến bước kế tiếp là sẽ phải cải cách Ngân hàng Thế giới.

Tuần qua, khi đề cập tới việc cải cách ấy, chúng ta nói đến những sức ép từ nhiều góc độ khác nhau. Như thực tế kinh tế của thế giới có thay đổi với sự chuyển dịch quyền lực ngày càng nặng hơn về phía các nước đang phát triển nhờ trọng lượng kinh tế của họ; hoăc như sức ép của Hoa Kỳ đang đòi Ngân hàng Thế giới phải chú ý nhiều hơn tới các vấn đề liên hệ đến nạn tham nhũng và đến chế độ cai trị tại các nước nghèo và phải định ra tiêu chuẩn của việc tài trợ, hậu quả của dự án được tài trợ đối với môi sinh và xã hội. Một sức ép đáng kể nữa là từ các tổ chức ngoài chính phủ, các NGO, đòi Ngân hàng Thế giới phải quan tâm đến nhiều khía cạnh không thuần túy kinh tế tài chính, thí dụ như môi sinh, nhân quyền hoặc điều kiện lao động tại các nước nghèo được định chế này viện trợ.

Trong khi ấy, Ngân hàng Thế giới vẫn phải huy động vốn và trả tiền lời cho chủ đầu tư trên thị trường tài chính quốc tế và còn gặp sự cạnh tranh của các ngân hàng khác kể cả ngân hàng của Trung Quốc, vốn ít đặt điều kiện về tài trợ hơn Ngân hàng Thế giới mà còn dễ dãi cho các nước khác vay mượn vì những mục tiêu ngoại giao và chiến lược.

- Hỏi: Như vậy, Ngân hàng Thế giới sẽ phải được cải cách để ứng phó với tình hình mới. Ông cho rằng định chế này sẽ cải cách theo chiều hướng nào"

- Người ta chưa thể biết được, nhưng giới quan sát thì cho rằng định chế này đang ở trước hai chọn lựa lưỡng nan.

Một là vẫn tranh đấu để giành lấy một tỷ lệ lớn trên thị trường cấp phát tín dụng cho các nước đang phát triển và trong hoàn cảnh ấy sẽ thường xuyên bị áp lực gọi là lý tưởng của Hoa Kỳ mà lại gây bực bội cho nhiều nước góp vốn khác từ Âu châu và có thể vì vậy sẽ mất khách hàng, mất thân chủ, mất người đi vay.

Chọn lựa thứ hai là chủ động thu gọn tầm hoạt động vào các dự án xứng đáng nhất về nhiều mặt, nhưng sẽ chỉ là một trong nhiều ngân hàng tài trợ trên thế giới, một ngân hàng có uy tín và giá trị tượng trưng mà mất dần thực lực. Tân Chủ tịch Paul Wolfowitz của Ngân hàng Thế giới sẽ phải quyết định về hướng cải cách ấy, và cho đến nay, ông vẫn giữ nguyên tham vọng tài trợ tối đa cho các nước nghèo, theo mục tiêu lý tưởng ban đầu của định chế tài chính này.

- Hỏi: Bây giờ, ta đi vào đề tài chính của kỳ này, là quy tắc hành xử gọi là Equator Principles. Nhiều thính giả có thể ngạc nhiên vì các ngân hàng lại tuân thủ những quy tắc ấy.

Mà tôi thiển nghĩ rằng ta nên gọi là "Đạo tắc Equator" vì chúng không chỉ là các nguyên lý hay nguyên tắc về hoạt động ngân hàng mà còn thiên về các tiêu chuẩn đạo lý.

Trước tiên, trong bộ môn gọi là "kinh tế học phát triển" - chủ yếu là kinh tế học của các nước đang phát triển để ra khỏi hoàn cảnh chậm tiến hay nghèo đói - người ta chú trọng đến các "dự án", đa số là loại dự án phát triển hạ tầng, năng lượng, công nghiệp, có quy mô lớn và tầm ảnh hưởng cao đến công cuộc phát triển. Một giai đoạn then chốt của loại dự án này là việc tài trợ, tìm nguồn vốn thực hiện - thí dụ như qua một định chế viện trợ quốc tế như công ty tài chính IFC của Ngân hàng Thế giới hoặc qua các ngân hàng tư nhân.

Do áp lực của các nước nghèo và nhất là từ các tổ chức ngoài chính phủ NGO, năm 2002, cơ quan IFC xướng xuất sáng kiến là mời các ngân hàng tư nhân cùng tuân thủ một số quy tắc tài trợ các dự án ấy để kết hợp tiêu chuẩn tài trợ những mối quan tâm ngoài kinh tế tài chính liên hệ đến môi sinh và xã hội. Được gọi là Đạo tắc Equator, sáng kiến ấy thành hình từ năm 2003 và định ra một số đường hướng tự nguyện về môi sinh và xã hội cho các ngân hàng.

Đến nay có hơn bốn chục ngân hàng quốc tế đã tham gia chương trình đồng thuận ấy, trong số đó có ABN-AMRO Bank của Hà Lan, có Bank of America, CityGroup hay JPMorgan Chase của Hoa Kỳ, v.v… Nếu kể về khối lượng thì các ngân hàng này tổng cộng tài trợ đến gần 80% các dự án. Gần đây, vào tháng Bảy vừa qua, hệ thống Đạo tắc Equator ấy còn được mở rộng thêm về tầm ảnh hưởng và đào sâu hơn về phẩm chất của các tiêu chuẩn tài trợ.

Đây là điều mà các nước xin vay, kể cả và nhất là Việt Nam, cần quan tâm theo dõi để biết rõ luật chơi của thế giới, hoặc quy tắc hành xử văn minh của các ngân hàng.

- Hỏi: Xin ông trình bày cho thính giả rõ đôi chút về những quy tắc đạo lý ấy.

Về đại thể, Đạo tắc Equator áp dụng cho các dự án đầu tư trị giá từ 10 triệu Mỹ kim trở lên và đề ra là các ngân hàng ký kết chỉ tài trợ cho những dự án hội đủ một số điều kiện sau đây:

Thứ nhất, mức rủi ro của dự án được xếp loại theo các tiêu chuẩn thanh lọc về môi sinh và xã hội do công ty IFC đề ra. Thứ hai, về các loại dự án có mức rủi ro trung bình hay cao  - loại A và B - thì giới chức bảo trợ phải làm một "Lượng định về Môi sinh" mà việc soạn thảo phải đáp ứng một số đòi hỏi và phải thoả mãn những vấn đề được nêu lên về môi sinh và xã hội. Thứ ba, báo cáo "Lượng định về Môi sinh" này phải thỏa mãn hàng loạt mấy chục điều kiện cơ bản về môi sinh và xã hội, cả luật lệ của nơi thực hiện dự án lẫn các thỏa ước của quốc tế. Thứ tư, trên cơ sở của báo cáo ấy, ngân hàng tài trợ sẽ thỏa thuận với thân chủ hay quốc gia thân chủ về cách kiểm tra và ứng phó với những rủi ro về môi sinh và xã hội. Nếu thân chủ không chấp nhận hoặc không tuân thủ thì việc tài trợ có thể được chấm dứt, khách nợ phải lập tức hoàn trả tiền vay. Thứ năm, với các dự án có rủi ro cao thì khách vay nợ cần tham khảo ý kiến của các tổ chức NGO, các thành phần dân chúng bị thiệt hại vì dự án và phải cung cấp cho tiết rõ ràng về rủi ro của dự án. 

Do sức ép rất mạnh của các NGO, hôm mùng sáu tháng Bảy vừa qua, Đạo tắc Equator vừa được điều chỉnh thêm nhưng vẫn gặp sự ủng hộ còn dè dặt của các tổ chức này. Các NGO còn lập ra một cơ chế mệnh danh là BankTrack để theo dõi nghiệp vụ tài trợ của các ngân hàng cho những dự án phát triển của các nước nghèo.

- Hỏi: Chúng tôi xin được hỏi thêm về điều kiện thứ tư đó là các thân chủ hay quốc gia đi vay phải tuân thủ những cam kết với ngân hàng tài trợ như thế nào và các tổ chức ngoài chính phủ NGO tham gia vào việc theo dõi những cam kết ấy như thế nào"

- Trên cơ sở của báo cáo gọi là "Lượng định về Môi sinh", bên xin vay và bên cho vay cùng ký kết một thỏa ước trong đó có nêu ra những điều kiện về môi sinh hay xã hội làm khuôn khổ kiểm tra theo dõi. Việc kiểm tra ấy có thể cần tới quan điểm chuyên môn của các NGO và nếu thấy có vi phạm, các NGO sẽ nêu vấn đề và việc tài trợ có khi chấm dứt. Nghĩa là giữa người cho vay và người đi vay ngày nay lại có thêm một thành phần khác là các NGO hay những người bị ảnh hưởng của dự án, và họ có quyền lên tiếng.

- Hỏi: Ông đang đề cập tới một hiện tượng rất lạ của thế giới là các tổ chức ngoài chính phủ nay lại có khả năng can thiệp vào nghiệp vụ của các ngân hàng.

- Không những vậy, mà họ còn can thiệp vào chính sách môi sinh, giáo dục, lao động hay diệt trừ tham nhũng hoặc vào chế độ cai trị và nhân quyền của các nước nghèo. Đồng thời họ chi phối luôn cả quyết định kinh doanh của nhiều doanh nghiệp quốc tế đang muốn thực hiện các dự án phát triển ấy tại các nước nghèo.

Chúng ta không quên là các dự án xây dựng hạ tầng, hay năng lượng hay khai thác tài nguyên khoáng sản thường do các tổ hợp quốc tế thực hiện cho các nước đang phát triển. Đạo tắc Equator chi phối việc tài trợ các dự án đó cũng mặc nhiên ảnh hưởng đến tính toán lời lỗ của các doanh nghiệp quốc tế và ngoài ra còn khiến các chế độ độc tài hay tham ô phải suy nghĩ lại về cách cai trị của mình. Đây là một hiện tượng lạ nhưng không hẳn là mới vì đã xuất hiện từ vài thập niên rồi mà dư luận chưa chú ý thôi.

- Hỏi: Đến đây, có lẽ ông phải trình bày lại diễn tiến của các cuộc vận động ấy từ mấy chục năm qua, nếu không, thính giả có thể không thấy ra một trào lưu mới của thế giới, một trung tâm quyền lực mới của địa cầu.- Ban đầu, người ta chỉ chú ý đến quan hệ giữa công dân và chính quyền, rồi quan hệ giữa các chính quyền với nhau, rồi quan hệ giữa các nước với các định chế quốc tế. Nhưng từ thập niên 80 trở đi, người ta thấy xuất hiện các tổ chức thiện nguyện, các cơ quan hiệp hội nằm ngoài chính quyền - quốc gia hay quốc tế - và các NGO này hoạt động ngày càng tích cực hơn.

Có loại NGO mà mục tiêu và bản chất là chống kinh tế thị trường và chống toàn cầu hoá và họ mất dần ảnh hưởng trong các nước đang phát triển vốn cần tự do kinh tế để phát triển và thoát khỏi cảnh nghèo đói lạc hậu. Ngược lại, có nhiều NGO đã nương theo kinh tế thị trường mà nhắm vào việc cải thiện môi trường sinh sống cho các nước nghèo. Thay vì chống lại các tập đoàn đa quốc hay các đại tổ hợp kinh doanh quốc tế, các NGO này tác động vào một khâu chiến lược là nguồn tài trợ, vào các ngân hàng.

Và điều ấy dẫn tới sáng kiến Đạo tắc Equator của công ty IFC của Ngân hàng Thế giới, với mục tiêu vẫn là cải thiện chế độ bảo vệ môi sinh và xã hội cho các nước nghèo. Các NGO tương đối đã thành công vì sau khi đòi hỏi các định chế tài chính quốc tế phải quan tâm đến vấn đề này, bây giờ họ còn chi phối mục tiêu tài trợ của các ngân hàng tư nhân.

- Hỏi: Câu hỏi cuối của chúng tôi là "tương lai rồi sẽ ra sao""

- Tôi thiển nghĩ là các NGO này sẽ hành xử quyền lực mới của họ như thế nào" Đây là biểu hiện bất ngờ và rất mạnh của xã hội dân sinh, xã hội dân sự, của "civil society" như người ta đang nói tới.

Ngày xưa các NGO này đứng ngoài để phản đối hay đòi hỏi; ngày nay, khi được mời tham gia vào tiến trình quyết định của các ngân hàng thì họ sẽ ứng xử ra rao" Họ sẽ tiếp tục đòi hỏi thêm quyền hạn mà không có khả năng hành xử hay là họ sẽ đóng vai trò phê phán và quyết định xây dựng trong tiến trình thẩm tra và tài trợ dự án" Giữa hai thái cực ấy, các tổ chức NGO sẽ phải tìm ra một giải pháp tác động công hiệu hơn cả.

Và một câu hỏi sau cùng cũng chưa có giải đáp, là sẽ có những NGO nào theo dõi mục tiêu và thành quả của các NGO tích cực và ồn ào nhất"

Cho đến nay, trong khuôn khổ gọi là "toàn cầu", các NGO có ảnh hưởng nhất thường xuất phát từ các nước giàu có, và họ tranh đấu cho người dân của các nước nghèo. Nhưng vì sao các nước nghèo như Việt Nam lại chưa cho dân chúng thành lập các hiệp hội thiện nguyện để bảo vệ lấy quyền lợi của mình" Thế giới đã có các hiệp hội nêu vấn đề về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và ngân hàng, vì sao người dân tại các nước nghèo lại không được quyền lập hội để nêu vấn đề cho mình"

Xin cảm ơn kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa với câu hỏi sau cùng này, "vì sao người dân tại các nước nghèo lại không được quyền lập hội để tranh đấu cho quyền lợi của mình"" Xin kính chào ông.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.