Hôm nay,  

Đạo Tắc Equator

04/10/200600:00:00(Xem: 9361)

... vì sao các nước nghèo như Việt Nam chưa cho dân lập các hội thiện nguyện để bảo vệ quyền lợi của mình...

Khi tìm hiểu về đề tài "Cải cách Ngân hàng Thế giới", mục Diễn đàn Kinh tế tuần trước của chúng tôi đã trình bày sơ lược về những quy tắc hành xử văn minh gọi là Equator Principles. Kỳ này, chúng ta tìm hiểu tiếp về các quy tắc ấy trong phần trao đổi sau đây giữa kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa với Nguyễn An, người thực hiện chương trình.

- Hỏi: Thưa ông, trong tiết mục chuyên đề Diễn đàn Kinh tế vào tuần trước, ông có trình bày về chiều hướng cải cách Ngân hàng Thế giới nhân kỳ họp thường niên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF và Ngân hàng Thế giới tại Singapore. Chúng tôi xin đề nghị là tuần này, ta tiếp tục tìm hiểu về chiều hướng cải cách ấy và nhất là về quy tắc hành xử gọi là Equator Principles.

- Để thính giả tiện theo dõi chương trình, trước hết, xin ông trình bày tóm lược một số ý chính của kỳ trước liên hệ đến việc cải cách Ngân hàng Thế giới.

Thưa 60 năm sau khi được thành lập, hai định chế tài chính quốc tế thoát thai từ thỏa ước Bretton Wood thành hình vào cuối Thế chiến II là Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF và Ngân hàng Thế giới đã phải xử lý với những đổi thay của thế giới. Trong kỳ họp thường viên vừa qua tại Singapore, người ta bắt đầu cải tổ cơ chế quyết định của IMF trong một kế hoạch sẽ kéo dài hai năm. Vì vậy, chúng ta mới nói đến bước kế tiếp là sẽ phải cải cách Ngân hàng Thế giới.

Tuần qua, khi đề cập tới việc cải cách ấy, chúng ta nói đến những sức ép từ nhiều góc độ khác nhau. Như thực tế kinh tế của thế giới có thay đổi với sự chuyển dịch quyền lực ngày càng nặng hơn về phía các nước đang phát triển nhờ trọng lượng kinh tế của họ; hoăc như sức ép của Hoa Kỳ đang đòi Ngân hàng Thế giới phải chú ý nhiều hơn tới các vấn đề liên hệ đến nạn tham nhũng và đến chế độ cai trị tại các nước nghèo và phải định ra tiêu chuẩn của việc tài trợ, hậu quả của dự án được tài trợ đối với môi sinh và xã hội. Một sức ép đáng kể nữa là từ các tổ chức ngoài chính phủ, các NGO, đòi Ngân hàng Thế giới phải quan tâm đến nhiều khía cạnh không thuần túy kinh tế tài chính, thí dụ như môi sinh, nhân quyền hoặc điều kiện lao động tại các nước nghèo được định chế này viện trợ.

Trong khi ấy, Ngân hàng Thế giới vẫn phải huy động vốn và trả tiền lời cho chủ đầu tư trên thị trường tài chính quốc tế và còn gặp sự cạnh tranh của các ngân hàng khác kể cả ngân hàng của Trung Quốc, vốn ít đặt điều kiện về tài trợ hơn Ngân hàng Thế giới mà còn dễ dãi cho các nước khác vay mượn vì những mục tiêu ngoại giao và chiến lược.

- Hỏi: Như vậy, Ngân hàng Thế giới sẽ phải được cải cách để ứng phó với tình hình mới. Ông cho rằng định chế này sẽ cải cách theo chiều hướng nào"

- Người ta chưa thể biết được, nhưng giới quan sát thì cho rằng định chế này đang ở trước hai chọn lựa lưỡng nan.

Một là vẫn tranh đấu để giành lấy một tỷ lệ lớn trên thị trường cấp phát tín dụng cho các nước đang phát triển và trong hoàn cảnh ấy sẽ thường xuyên bị áp lực gọi là lý tưởng của Hoa Kỳ mà lại gây bực bội cho nhiều nước góp vốn khác từ Âu châu và có thể vì vậy sẽ mất khách hàng, mất thân chủ, mất người đi vay.

Chọn lựa thứ hai là chủ động thu gọn tầm hoạt động vào các dự án xứng đáng nhất về nhiều mặt, nhưng sẽ chỉ là một trong nhiều ngân hàng tài trợ trên thế giới, một ngân hàng có uy tín và giá trị tượng trưng mà mất dần thực lực. Tân Chủ tịch Paul Wolfowitz của Ngân hàng Thế giới sẽ phải quyết định về hướng cải cách ấy, và cho đến nay, ông vẫn giữ nguyên tham vọng tài trợ tối đa cho các nước nghèo, theo mục tiêu lý tưởng ban đầu của định chế tài chính này.

- Hỏi: Bây giờ, ta đi vào đề tài chính của kỳ này, là quy tắc hành xử gọi là Equator Principles. Nhiều thính giả có thể ngạc nhiên vì các ngân hàng lại tuân thủ những quy tắc ấy.

Mà tôi thiển nghĩ rằng ta nên gọi là "Đạo tắc Equator" vì chúng không chỉ là các nguyên lý hay nguyên tắc về hoạt động ngân hàng mà còn thiên về các tiêu chuẩn đạo lý.

Trước tiên, trong bộ môn gọi là "kinh tế học phát triển" - chủ yếu là kinh tế học của các nước đang phát triển để ra khỏi hoàn cảnh chậm tiến hay nghèo đói - người ta chú trọng đến các "dự án", đa số là loại dự án phát triển hạ tầng, năng lượng, công nghiệp, có quy mô lớn và tầm ảnh hưởng cao đến công cuộc phát triển. Một giai đoạn then chốt của loại dự án này là việc tài trợ, tìm nguồn vốn thực hiện - thí dụ như qua một định chế viện trợ quốc tế như công ty tài chính IFC của Ngân hàng Thế giới hoặc qua các ngân hàng tư nhân.

Do áp lực của các nước nghèo và nhất là từ các tổ chức ngoài chính phủ NGO, năm 2002, cơ quan IFC xướng xuất sáng kiến là mời các ngân hàng tư nhân cùng tuân thủ một số quy tắc tài trợ các dự án ấy để kết hợp tiêu chuẩn tài trợ những mối quan tâm ngoài kinh tế tài chính liên hệ đến môi sinh và xã hội. Được gọi là Đạo tắc Equator, sáng kiến ấy thành hình từ năm 2003 và định ra một số đường hướng tự nguyện về môi sinh và xã hội cho các ngân hàng.

Đến nay có hơn bốn chục ngân hàng quốc tế đã tham gia chương trình đồng thuận ấy, trong số đó có ABN-AMRO Bank của Hà Lan, có Bank of America, CityGroup hay JPMorgan Chase của Hoa Kỳ, v.v… Nếu kể về khối lượng thì các ngân hàng này tổng cộng tài trợ đến gần 80% các dự án. Gần đây, vào tháng Bảy vừa qua, hệ thống Đạo tắc Equator ấy còn được mở rộng thêm về tầm ảnh hưởng và đào sâu hơn về phẩm chất của các tiêu chuẩn tài trợ.

Đây là điều mà các nước xin vay, kể cả và nhất là Việt Nam, cần quan tâm theo dõi để biết rõ luật chơi của thế giới, hoặc quy tắc hành xử văn minh của các ngân hàng.

- Hỏi: Xin ông trình bày cho thính giả rõ đôi chút về những quy tắc đạo lý ấy.

Về đại thể, Đạo tắc Equator áp dụng cho các dự án đầu tư trị giá từ 10 triệu Mỹ kim trở lên và đề ra là các ngân hàng ký kết chỉ tài trợ cho những dự án hội đủ một số điều kiện sau đây:

Thứ nhất, mức rủi ro của dự án được xếp loại theo các tiêu chuẩn thanh lọc về môi sinh và xã hội do công ty IFC đề ra. Thứ hai, về các loại dự án có mức rủi ro trung bình hay cao  - loại A và B - thì giới chức bảo trợ phải làm một "Lượng định về Môi sinh" mà việc soạn thảo phải đáp ứng một số đòi hỏi và phải thoả mãn những vấn đề được nêu lên về môi sinh và xã hội. Thứ ba, báo cáo "Lượng định về Môi sinh" này phải thỏa mãn hàng loạt mấy chục điều kiện cơ bản về môi sinh và xã hội, cả luật lệ của nơi thực hiện dự án lẫn các thỏa ước của quốc tế. Thứ tư, trên cơ sở của báo cáo ấy, ngân hàng tài trợ sẽ thỏa thuận với thân chủ hay quốc gia thân chủ về cách kiểm tra và ứng phó với những rủi ro về môi sinh và xã hội. Nếu thân chủ không chấp nhận hoặc không tuân thủ thì việc tài trợ có thể được chấm dứt, khách nợ phải lập tức hoàn trả tiền vay. Thứ năm, với các dự án có rủi ro cao thì khách vay nợ cần tham khảo ý kiến của các tổ chức NGO, các thành phần dân chúng bị thiệt hại vì dự án và phải cung cấp cho tiết rõ ràng về rủi ro của dự án. 

Do sức ép rất mạnh của các NGO, hôm mùng sáu tháng Bảy vừa qua, Đạo tắc Equator vừa được điều chỉnh thêm nhưng vẫn gặp sự ủng hộ còn dè dặt của các tổ chức này. Các NGO còn lập ra một cơ chế mệnh danh là BankTrack để theo dõi nghiệp vụ tài trợ của các ngân hàng cho những dự án phát triển của các nước nghèo.

- Hỏi: Chúng tôi xin được hỏi thêm về điều kiện thứ tư đó là các thân chủ hay quốc gia đi vay phải tuân thủ những cam kết với ngân hàng tài trợ như thế nào và các tổ chức ngoài chính phủ NGO tham gia vào việc theo dõi những cam kết ấy như thế nào"

- Trên cơ sở của báo cáo gọi là "Lượng định về Môi sinh", bên xin vay và bên cho vay cùng ký kết một thỏa ước trong đó có nêu ra những điều kiện về môi sinh hay xã hội làm khuôn khổ kiểm tra theo dõi. Việc kiểm tra ấy có thể cần tới quan điểm chuyên môn của các NGO và nếu thấy có vi phạm, các NGO sẽ nêu vấn đề và việc tài trợ có khi chấm dứt. Nghĩa là giữa người cho vay và người đi vay ngày nay lại có thêm một thành phần khác là các NGO hay những người bị ảnh hưởng của dự án, và họ có quyền lên tiếng.

- Hỏi: Ông đang đề cập tới một hiện tượng rất lạ của thế giới là các tổ chức ngoài chính phủ nay lại có khả năng can thiệp vào nghiệp vụ của các ngân hàng.

- Không những vậy, mà họ còn can thiệp vào chính sách môi sinh, giáo dục, lao động hay diệt trừ tham nhũng hoặc vào chế độ cai trị và nhân quyền của các nước nghèo. Đồng thời họ chi phối luôn cả quyết định kinh doanh của nhiều doanh nghiệp quốc tế đang muốn thực hiện các dự án phát triển ấy tại các nước nghèo.

Chúng ta không quên là các dự án xây dựng hạ tầng, hay năng lượng hay khai thác tài nguyên khoáng sản thường do các tổ hợp quốc tế thực hiện cho các nước đang phát triển. Đạo tắc Equator chi phối việc tài trợ các dự án đó cũng mặc nhiên ảnh hưởng đến tính toán lời lỗ của các doanh nghiệp quốc tế và ngoài ra còn khiến các chế độ độc tài hay tham ô phải suy nghĩ lại về cách cai trị của mình. Đây là một hiện tượng lạ nhưng không hẳn là mới vì đã xuất hiện từ vài thập niên rồi mà dư luận chưa chú ý thôi.

- Hỏi: Đến đây, có lẽ ông phải trình bày lại diễn tiến của các cuộc vận động ấy từ mấy chục năm qua, nếu không, thính giả có thể không thấy ra một trào lưu mới của thế giới, một trung tâm quyền lực mới của địa cầu.- Ban đầu, người ta chỉ chú ý đến quan hệ giữa công dân và chính quyền, rồi quan hệ giữa các chính quyền với nhau, rồi quan hệ giữa các nước với các định chế quốc tế. Nhưng từ thập niên 80 trở đi, người ta thấy xuất hiện các tổ chức thiện nguyện, các cơ quan hiệp hội nằm ngoài chính quyền - quốc gia hay quốc tế - và các NGO này hoạt động ngày càng tích cực hơn.

Có loại NGO mà mục tiêu và bản chất là chống kinh tế thị trường và chống toàn cầu hoá và họ mất dần ảnh hưởng trong các nước đang phát triển vốn cần tự do kinh tế để phát triển và thoát khỏi cảnh nghèo đói lạc hậu. Ngược lại, có nhiều NGO đã nương theo kinh tế thị trường mà nhắm vào việc cải thiện môi trường sinh sống cho các nước nghèo. Thay vì chống lại các tập đoàn đa quốc hay các đại tổ hợp kinh doanh quốc tế, các NGO này tác động vào một khâu chiến lược là nguồn tài trợ, vào các ngân hàng.

Và điều ấy dẫn tới sáng kiến Đạo tắc Equator của công ty IFC của Ngân hàng Thế giới, với mục tiêu vẫn là cải thiện chế độ bảo vệ môi sinh và xã hội cho các nước nghèo. Các NGO tương đối đã thành công vì sau khi đòi hỏi các định chế tài chính quốc tế phải quan tâm đến vấn đề này, bây giờ họ còn chi phối mục tiêu tài trợ của các ngân hàng tư nhân.

- Hỏi: Câu hỏi cuối của chúng tôi là "tương lai rồi sẽ ra sao""

- Tôi thiển nghĩ là các NGO này sẽ hành xử quyền lực mới của họ như thế nào" Đây là biểu hiện bất ngờ và rất mạnh của xã hội dân sinh, xã hội dân sự, của "civil society" như người ta đang nói tới.

Ngày xưa các NGO này đứng ngoài để phản đối hay đòi hỏi; ngày nay, khi được mời tham gia vào tiến trình quyết định của các ngân hàng thì họ sẽ ứng xử ra rao" Họ sẽ tiếp tục đòi hỏi thêm quyền hạn mà không có khả năng hành xử hay là họ sẽ đóng vai trò phê phán và quyết định xây dựng trong tiến trình thẩm tra và tài trợ dự án" Giữa hai thái cực ấy, các tổ chức NGO sẽ phải tìm ra một giải pháp tác động công hiệu hơn cả.

Và một câu hỏi sau cùng cũng chưa có giải đáp, là sẽ có những NGO nào theo dõi mục tiêu và thành quả của các NGO tích cực và ồn ào nhất"

Cho đến nay, trong khuôn khổ gọi là "toàn cầu", các NGO có ảnh hưởng nhất thường xuất phát từ các nước giàu có, và họ tranh đấu cho người dân của các nước nghèo. Nhưng vì sao các nước nghèo như Việt Nam lại chưa cho dân chúng thành lập các hiệp hội thiện nguyện để bảo vệ lấy quyền lợi của mình" Thế giới đã có các hiệp hội nêu vấn đề về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và ngân hàng, vì sao người dân tại các nước nghèo lại không được quyền lập hội để nêu vấn đề cho mình"

Xin cảm ơn kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa với câu hỏi sau cùng này, "vì sao người dân tại các nước nghèo lại không được quyền lập hội để tranh đấu cho quyền lợi của mình"" Xin kính chào ông.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.