Hôm nay,  

Á Châu 2007

27/12/200600:00:00(Xem: 9030)

Á Châu 2007

... Cởi mở về kinh tế có dẫn tới cởi mở về chính trị hay không...

Chúng ta đang ở vào những ngày cuối năm, và chờ đợi nhiều hy vọng tốt đẹp cho năm 2007. Đối với các nền kinh tế Á châu, viễn ảnh kinh tế trong năm 2007 sẽ ra sao" Diễn đàn Kinh tế sẽ làm một bản tổng kết cho câu hỏi này trong phần trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa do Việt Long thực hiện sau đây.

Hỏi: Năm 2007 sẽ mở ra nội trong vài ngày tới, chúng tôi xin đề nghị là ta sẽ cùng tìm hiểu về triển vọng hay rủi ro kinh tế trong năm tới cho các nền kinh tế Á châu. Câu đầu tiên của chúng tôi là tình hình chung sẽ ra sao, có khả quan hay không"

- Nhìn chung thì tình hình tăng trưởng kinh tế vẫn sẽ khả quan, nhưng không được như năm nay và câu hỏi đang ám ảnh mọi người trên các thị trường Châu Á là liệu Á Châu đã đứng vững chưa hay vẫn tùy thuộc vào một đầu máy tăng trưởng là kinh tế Hoa Kỳ. Câu hỏi ấy sở dĩ được đặt ra vì, dù chỉ đóng góp chừng 22 đến 25% vào tổng sản lượng kinh tế của thế giới, kinh tế Mỹ vẫn góp phần tới 60% vào tốc độ tăng trưởng của kinh tế toàn cầu vì sức tiêu thụ rất cao của mình mà qua năm tới đây, kinh tế Mỹ sẽ bước vào một chu kỳ suy trầm nhẹ, ít ra trong sáu tháng đầu năm và gặp trường hợp ấy nạn suy trầm tại Mỹ sẽ chi phối sự thịnh vượng của Châu Á như thế nào"

Hỏi: Thưa ông, nói như vậy nghĩa là nếu tìm hiểu về viễn ảnh 2007 của Á châu, người ta vẫn cần nhìn về kinh tế Hoa Kỳ phải không"

- Thưa đúng như vậy và đây là một nghịch lý mà chúng ta cần quan tâm khi phân tách tình hình kinh tế thế giới. Các quốc gia đều có thói quen nghi kỵ hay đả kích chính sách ngoại giao của Mỹ nhưng thực ra vẫn cần tới niềm tin tưởng và sự lạc quan của giới tiêu thụ Mỹ và chính tâm lý ấy cũng giải thích vì sao nhiều nước chống Mỹ ở bề ngoài mà vẫn thấy cần Mỹ nên càng chống!

Hỏi: Ông vừa nói là người ta chưa rõ rằng Châu Á đã đứng vững hay chưa, và có bị lệ thuộc quá nhiều vào kinh tế Hoa Kỳ không. Như vậy, Á Châu cũng có một hy vọng xin tạm gọi là độc lập hay được tách rời khỏi những chu kỳ thăng trầm của thị trường Hoa Kỳ"

- Và đấy sẽ là câu hỏi lớn của năm 2007 này. Nói cho cụ thể thì mức độ ràng buộc của kinh tế Á Châu - đây là ta nói về Á Châu ngoài Nhật Bản - vào kinh tế Mỹ có thể đo lường ở ba yếu tố. Thứ nhất là sản lượng Á Châu cao hay thấp so với sản lượng Hoa Kỳ, thì trong năm năm qua, tỷ trọng của sức sản xuất Á Châu so sánh với Hoa Kỳ có gia tăng đáng kể, từ một phần ba nay đã lên tới khoảng 45%. Yếu tố thứ hai là tỷ trọng của xuất khẩu Á Châu qua Mỹ nhiều hay ít, thì trong mươi năm qua, phần xuất khẩu của Á Châu vào thị trường Mỹ có giảm, từ hơn 22% nay chỉ còn khoảng 17-18% và vì vậy bị hay được hiệu ứng của Mỹ ít hơn. Yếu tố thứ ba, hơi chuyên môn hơn một chút, là mức lãi suất bình quân của Á châu so với lãi suất tại Mỹ ra sao. Hiện nay, lãi suất ngắn hạn tại Mỹ đã tăng 17 lần mỗi lần 25 điểm kể từ tháng Sáu năm 2004, trong khi ấy, lãi suất bình quân tại Á châu vẫn còn thấp hơn nhiều. Căn cứ trên quan hệ thực tế ấy, nhiều người cho rằng Á Châu nay đã có thể đứng một mình và không bị ảnh hưởng nhiều của các chu kỳ thăng giáng tại Mỹ. Tuy nhiên, tôi vẫn nghĩ rằng ảnh hưởng đó vẫn có và đấy là một rủi ro.

Hỏi: Ông giải thích thế nào về nhận định có vẻ bi quan ấy"

- Thưa là vì Á Châu, ngoại trừ trường hợp Ấn Độ, vẫn chưa có khả năng tôi xin tạm gọi là “kích cầu nội địa”, tức là gia tăng sức tiêu thụ của thị trường nội địa và ngạch số đầu tư nhiều hay ít vẫn cứ được quyết định căn cứ trên triển vọng xuất khẩu của các nước và trên chu kỳ tăng trưởng của thế giới bên ngoài. Chúng ta có thể thấy điều ấy khá rõ ngay tại Việt Nam. Ngày hôm nay, ở tại Việt Nam, mọi người đều lạc quan với việc gia nhập WTO và tính toán làm ăn gì, kể cả xây cất hoặc đầu tư vào bất động sản, cũng căn cứ vào triển vọng mua bán hay giao dịch với Hoa Kỳ. Trung Quốc cũng thế và họ vừa lên tiếng than phiền là khoảng cách giàu nghèo ngày càng đào sâu chính là vì thành phần gọi là giàu có thịnh vượng nhất, ở các tỉnh duyên hải, đã làm giàu nhờ giao dịch buôn bán với thị trường bên ngoài, chủ yếu là thị trường Mỹ.

Hỏi: Trong giả thuyết gọi là bi quan là kinh tế Mỹ sẽ gặp chu kỳ suy trầm nhẹ và Á Châu sẽ bị vạ lây thì những gì có thể xảy ra"

- Nói chung thì tốc độ tăng trưởng có thể giảm chứ không bằng được kết quả năm nay. Thứ hai, ví thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, các nước phải cố gắng cạnh tranh để bán hàng cho nhiều nên mâu thuẫn về ngoại thương sẽ gia tăng. Tại Hoa Kỳ, xu hướng bảo hộ mậu dịch đã thắng thế sau cuộc bầu cử vừa qua, sẽ càng trở thành gay gắt hơn với các nước xuất khẩu tại Đông Á. Cũng vì vậy mà vòng đàm phán Doha ta đã đề cập nhiều lần trên diễn đàn này sẽ khó được khai thông. Và đặc biệt là quan hệ kinh tế giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ càng căng thẳng, nhất là trong năm tới khi đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ có Đại hội, năm năm một lần. Dù sao, Trung Quốc vẫn còn một hy vọng khác là việc xây cất hạ tầng để chuẩn bị cho Thế vận hội Bắc Kinh 2008 nên sẽ bị ảnh hưởng ít hơn từ chu kỳ suy trầm tại Mỹ.

Hỏi: Trước khi chúng ta đề cập đến trường hợp Việt Nam, xin ông trình bày chung về khung cảnh của các nước Đông Nam Á, tức là Á Châu ngoài Nhật Bản, Trung Quốc và Ấn Độ và không kể các nước Đông Bắc Á như Đài Loan, Nam Hàn.

- Sau vụ khủng hoảng kinh tế Đông Á năm 1997-1998, các nước Á Châu và đặc biệt là Đông Nam Á đều thấy mối nguy khi giàng sự thịnh suy kinh tế vào thị trường bên ngoài nhưng chỉ có hai quốc gia là Thái Lan và Malaysia là có nỗ lực tôi gọi là kích cầu nội địa. Nhưng nỗ lực ấy đã bị suy giảm tại Thái vì bất ổn chính trị trong năm qua, và cũng không đủ mạnh tại Malaysia. Vì vậy, qua năm tới, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước Đông Nam Á có thể sẽ sút giảm so với năm nay, thay vì gần 6% thì chỉ còn hơn 5%. Ngoại lệ trong khu vực chính là Việt Nam.

Hỏi: Chúng ta đi vào đề mục cuối cùng là tình hình Việt Nam đó, vì sao ông lại có vẻ lạc quan với viễn ảnh 2007 của Việt Nam"

- Vì một lý do dễ hiểu là sự lạc quan phổ biến của thị trường với việc Việt Nam sẽ gia nhập WTO vào năm tới và lại vừa có quy chế mậu dịch bình thường và vĩnh viễn với Hoa Kỳ nên sẽ tiếp nhận khá nhiều đầu tư và sẽ xây cất rất mạnh. Vì vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế cho toàn năm có thể vẫn còn khả quan, chừng 7,5 đến 7,6%. Qua đến giữa năm 2007 trở đi thì mới gặp hiệu ứng bất lợi và hiệu ứng đó sẽ thành trầm trọng hơn trong năm 2008 khi thị trường thấy ra mặt trái của cơ chế chưa kịp cải cách theo những quy định của WTO. Cũng vì vậy mà tôi cho rằng giới lãnh đạo kinh tế và doanh gia cần nhìn xa hơn sự lạc quan nhất thời của viễn ảnh 2007.

Hỏi: Nhân dịp tổng kết vào cuối năm về mối quan hệ kinh tế giữa Á Châu và Hoa Kỳ, xin hỏi ông thêm một chi tiết khá đặc biệt nhưng ít được đề cập là vai trò kinh tế của người Việt ở tại Mỹ đối với thị trường Việt Nam. Đây là một vấn đề chúng tôi biết là rất nhạy cảm nhưng thật ra rất được người Việt quan tâm.

- Tôi biết rằng đây là một vấn đề nhạy cảm nên sẽ cố trình bày trên khía cạnh chuyên môn kinh tế trước khi nói đến những kết luận khác.

Hơn 25 năm trước, khi Đặng Tiểu Bình chuyển hướng và mở cửa kinh tế, động lực đầu tiên giúp cho kinh tế xứ này ra khỏi thời kỳ khủng hoảng u ám của cách mạng vô sản kiểu Mao chính là cộng đồng người Hoa tại hải ngoại, ta gọi là Hoa Kiều, chủ yếu qua ngả Hong Kong. Sau đấy mới tới các nhà đầu tư của các nước tư bản Tây phương. Việt Nam không được như vậy vì lầm lẫn tai hại về chính sách của lãnh đạo thời ấy và vì cộng đồng người Việt tại hải ngoại thành hình từ một thảm kịch quá lớn mà lãnh đạo tại Hà Nội không bao giờ công khai xin lỗi. Họ cứ nói vuốt theo kiểu chung chung như khúc ruột xa ngoài ngàn dậm.

Hỏi: Kết quả là đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sau thời đổi mới vẫn chưa có sự tham gia của cộng đồng người Việt ở hải ngoại"

- Thưa đúng vậy và đây là yếu kém đáng kể của Việt Nam nếu so với trường hợp Trung Quốc. Phải mất một thời gian khá lâu, cả chục năm, người ta mới từ bỏ được thói quen tôi xin gọi là “đánh quả” và “móc túi vặt” đối với đầu tư của người Việt ở nước ngoài. Tình hình ngày nay đang đổi khác và sẽ còn khác trong thời gian tới và người ta có thể chứng kiến điều ấy ngay tại California là nơi tập trung một cộng đồng người Việt rất đông đảo và thành công về kinh doanh. Chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng có thể gọi là hai bình thông nhau về kinh tế.

Hỏi: Ông nói đến hiện tượng “bình thông nhau” là như thế nào"

- Đó là mối giao dịch kinh tế giữa người Việt ở trong và ngoài nước. Trước tiên là hai bình thông đáy nhờ nguồn tiếp tế của người Việt hải ngoại cho thân nhân ở nhà. Kế tiếp là nhiều người đã dọ dẫm trở về đầu tư sau đấy thất vọng vì cơ hội thì ít mà tham nhũng và cướp giựt thì nhiều. Sau đó, kể từ khi Việt Nam và Hoa Kỳ ký kết Hiệp định Thương mại Song phương cách đây năm năm thì quy củ về đầu tư, chủ yếu do sức ép của doanh giới Mỹ, mới có cải thiện và nhờ đấy giới đầu tư người Mỹ gốc Việt Nam mới tìm về đông hơn, dù vẫn gặp rủi ro cao hơn người Mỹ không phải là gốc Việt Nam. Đây là sự khác biệt đáng xấu hổ cho người Việt Nam nếu ta so với trường hợp của Trung Quốc. Nói ra thì kỳ, họ có tinh thần dân tộc cao hơn chúng ta!

Hỏi: Và ngày nay, với triển vọng WTO đang rộng mở thì hiện tượng ông gọi là bình thông nhau đang gia tăng"

- Thưa rằng ta gặp một hiện tượng phức tạp hơn thế, vì hai bình thông nhau ở nhiều cửa, nhiều cấp. Ngày càng có nhiều người Việt tại Mỹ trở về đầu tư và làm ăn trước tiên là với thân nhân và gia đình vì sự tin tưởng, và ngày càng có nhiều thành phần khá giả hơn đầu tư vào những cơ sở quy mô hơn. Vì chế độ chưa hoàn toàn bình thường hoá quan hệ với người dân nên giới đầu tư ấy ít muốn công khai hoá việc làm ăn của họ. Ngược lại, một số thành phần khá giả, về tiền bạc và thế lực, cũng bắt đầu chuyển tiền ra ngoài. Ban đầu chỉ là cho con em đi học và mua nhà mua cửa, sau đó thì đầu tư vào các cơ sở kinh doanh. Hai bình thông nhau vì vậy ở nhiều cửa và ở hai chiều. Dân hải ngoại đem tiền về nhà đầu tư và mở ra cơ hội xuất khẩu cho người ở trong nước, đồng thời một số người có chức có quyền hay có tiền thì đầu tư ngược ra ngoài.

Hỏi: Câu hỏi cuối, thưa ông, là một câu nhạy cảm. Cởi mở về kinh tế có dẫn tới cởi mở về chính trị hay không" Chúng tôi sở dĩ nêu câu hỏi này vì nhiều người cho rằng nhờ việc Việt Nam gia nhập tổ chức WTO mà tình hình chính trị tại Việt Nam có thể sẽ thay đổi trong năm 2007 này.

- Tôi không tin như vậy. Tôi không tin là cải cách kinh tế sẽ cải thiện mức sống nhờ đó người dân sẽ có những ưu tiên cao hơn trong sự đòi hỏi. Lý do là mọi việc giải phóng sẽ giải phóng trước tiên những phản ứng tiêu cực, thí dụ như mánh mung và tham nhũng, và điều ấy càng làm ung thối hệ thống chính trị ở trên. Vì vậy, tôi cho rằng dù tình hình Việt Nam có cải thiện về kinh tế, việc người Việt ở trong và ngoài nước đòi hỏi tự do và dân chủ nhiều hơn thì vẫn là điều cần thiết và phải nói là có ích cho những người muốn kinh doanh hầu cải thiện cuộc sống của ngườ dân trong nước. Nếu cứ nhìn hai vế chính trị và kinh tế như đối lập thì người ta quên mất cái thế đòn bẩy tương tác giữa việc cải thiện chính trị và luật lệ cho thông thoáng với việc đẩu tư cho an toàn. Tôi nghĩ rằng năm 2007 sẽ chứng kiến sự chuyển động ấy.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.