Hôm nay,  

Sarkozy Dàn Trận

16/11/200700:00:00(Xem: 8329)

Và có thể làm thay đổi nước Pháp...

Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy là người xông xáo cựa quậy. Và có lẽ bị dư luận ở nhà - và tại Mỹ - coi thường khi tỏ vẻ ngưỡng mộ Hoa Kỳ trong chuyến viếng thăm chính thức vừa qua.

Thật ra, ông là nhân vật cách mạng trong một quốc gia chỉ thích nói về cách mạng.

Cách mạng vì dám nói, và sau đó dám làm những điều đã nói khi tranh cử.

Khi ra tranh cử tổng thống, Nicolas Sarkozzy nói đến nhu cầu cải cách kinh tế và xã hội Pháp, sau khi đắc cử, ông bắt đầu tiến hành việc đó. Tuần này, kế hoạch cải tổ của ông bị các nghiệp đoàn thách đố với hàng loạt những vụ đình công nối tiếp, bắt đầu từ trong ngành giao thông vận tải (xe điện, xe buýt), rồi tiện ích công cộng (điện, ga). Tuần tới sẽ là giáo viên rồi công chức, trong khi hiệp hội sinh viên Unef cũng sẵn sàng nhập cuộc...

Dân Pháp đã quen với những vụ đình công theo mùa như vậy, thường xảy ra sau kỳ nghỉ hè khi chính trường tái nhóm họp và đường phố biến thành chiến trường giữa thành viên nghiệp đoàn, sinh viên, giáo chức,... và nhân viên công lực. Quy luật phổ biến là rốt cuộc chính phủ cũng sẽ nhượng bộ, rút lại những đề nghị cải cách, trong khi nước Pháp lụn bại dần, bị thua sút về cạnh tranh với một tỷ lệ thất nghiệp mấp mé 10%.

Mười hai năm trước, Tổng thống Jacques Chirac cũng tưng bừng khai trương nhiệm kỳ đầu với kế hoạch chấm dứt chế độ ưu đãi công nhân mà nước Pháp thừa hưởng từ sau Thế chiến II. Các nghiệp đoàn lập tức dàn quân ứng chiến và sau mấy tuần hỗn loạn ngoài đường, hàng hoá bị tắc nghẽn, chính phủ của ông đã âm thầm kéo cờ trắng. Tình trạng ấy tái diễn định kỳ và các Thủ tướng Alain Juppé hay Dominique de Villepin đều buông tay lãnh đạn cho thượng cấp.

Nicolas Sarkozy không hèn như Chirac. Ông nhận lãnh trách nhiệm chính trị, đã nói là làm. Ngay từ khi tranh cử, ông đã nói trước là xã hội Pháp phải thay đổi và nếu muốn thay đổi thì dân Pháp hãy bỏ phiếu cho ông. Sau khi thắng cử, ông công khai xúc tiến kế hoạch cải tổ ấy, chứ không lồng việc cải tổ bên dưới những khẩu hiệu mị dân để đạt một vài thành quả biểu kiến. Trong tinh thần ấy, Sarkozy cũng đã khác với Thủ tưởng Lionel Jospin của đảng Xã hội.

Thứ nữa, Sarkozy trực tiếp thi hành việc cải cách chứ không ủy thác cho Chính phủ, hầu nếu có thua thì sẽ cho Thủ tướng Francois Fillon hay các Tổng trưởng liên hệ thủ vai con dê tế thần. Và ông được bầu làm Tổng thống cho một nhiệm kỳ năm năm, mới chỉ khai mạc có năm tháng!

Thật ra, ngay trong từng bước cải cách, Sarkozy vẫn giữ thái độ tương kính và trân trọng với các lãnh tụ nghiệp đoàn. Không coi thường họ, ông sẵn sàng đối thoại, nhưng chẳng nhượng bộ hoặc phục kích họ bằng những đề luật bất ngờ.

Sarkozy đánh bài ngỏ trước sự chứng kiến của công chúng, những người trọng tài chính yếu của trận đấu trí đấu lực này.

Và khác với các vị tiền nhiệm, Nicolas Sarkozy có hy vọng thành công.

Là người thừa kế chủ nghĩa de Gaulle, và lãnh đạo một đảng Gaulliste, Sarkozy đã minh định ngay từ khi tranh cử tinh thần của de Gaulle từ thời thành lập nền Đệ ngũ Cộng hoà là xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa chính quyền và công nhân.

Vào thời đó, tức là từ sau Thế chiến II, Pháp đã quốc hữu hoá nhiều doanh nghiệp và hệ thống chuyên chở công cộng nằm trong chế độ công quản. Việc giải tư hay tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước và quy chế lao động hay quyền lợi nghiệp đoàn thường do nhà nước và các nghiệp đoàn quyết định, với sự nhượng bộ dễ hiểu của chính quyền.

Sarkozy đề nghị cải thiện mối quan hệ đó theo những hoàn cảnh hiện đại, để nước Pháp giành lại ưu thế trên trường quốc tế - một chủ trương khác của de Gaulle. Ông hiện đại hoá quan hệ đó trong kế hoạch cải cách kinh tế và xã hội của mình. Và mặc nhiên phá vỡ ưu thế về quyền lợi mà các nghiệp đoàn - nhất là giao thông vận tải - đã giành được từ sau Thế chiến II.

Một đề mục tiêu biểu là việc đoàn viên nghiệp đoàn được về hưu với trọn vẹn quyền lợi hưu bổng chỉ sau 37 năm rưỡi lao động - trong khi những người khác cũng ở trong khu vực công thì phải chờ 40 năm. Chế độ ưu đãi ấy khiến nhiều công nhân đã có thể về hưu ở tuổi 55, thậm chí 50, và lãnh trọn vẹn quyền lợi hưu bổng của mình.

Sarkozy tấn công thẳng vào cái thế đặc quyền đó và biết rằng khác với trước đây, giờ này ông có hậu thuẫn của công chúng. Các cuộc khảo sát dân ý đều cho thấy tâm lý dân Pháp đã xoay chiều, ngày càng có nhiều người bất bình với ưu thế của loại công nhân quý tộc và với cái lối bắt bí của nghiệp đoàn. Gần 60% dân Pháp ủng hộ quyết định của Sarkozy - khác hẳn tình hình năm 1995.

Vả lại, nếu so sánh với các xứ khác, như Anh, Đức, hay Hoa Kỳ, tỷ lệ gia nhập nghiệp đoàn tại Pháp thuộc loại thấp nhất, nhưng nghiệp đoàn Pháp lại có ảnh hưởng lớn nhất. Dưới sự điều động của đảng Cộng sản (chỉ còn gần 3% lá phiếu dân chúng trong cuộc bầu cử tháng Sáu vừa qua), nghiệp đoàn CGT là một định chế có thể làm rung chuyển nội các và tê liệt nước Pháp.

Vì vậy, trận thử lửa kỳ này báo hiệu hàng loạt thay đổi trên nhiều lãnh vực khác, từ tư pháp qua lao động, thí dụ như các nghiệp đoàn phải bảo đảm một mức dịch vụ tối thiểu nào đó cho hệ thống chuyên chở công cộng chứ không thể bắt bí cả xã hội với các cuộc đình công của mình.

Nhiều người đã so sánh trận thư hùng này với trường hợp của Thủ tướng Margaret Thatcher với công nhân hầm mỏ tại Anh, hay Tổng thống Ronald Reagan với nghiệp đoàn kiểm soát không lưu tại Mỹ. Phương pháp của Sarkozy có thể uyển chuyển hơn, nhưng ý chí hiển nhiên thì không khác.

Một hồ sơ đáng theo dõi, để xem nước Pháp sẽ chiếm lại tư thế cường quốc như thế nào.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.