Hôm nay,  

Đạo Đức Của Lòng Từ Bi

09/10/200700:00:00(Xem: 7299)

- Nguyên tác: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chuyển ngữ: HT. Thích Trí Chơn

(Trích từ cuốn sách: “Ethics for the New Millennium”.)

Như tôi đã trình bày trước đây là các tôn giáo lớn trên thế giới đều chú tâm đến sự quan trọng của việc phát triển tình thương và lòng từ bi. Trong truyền thống Phật giáo, các mức độ thành tựu khác nhau đã được diễn tả. Với trình độ căn bản, từ bi được hiểu theo nghĩa chủ yếu là thiện cảm - năng lực đi vào, và ở một mức độ nào đó, chia sẽ nổi đau khổ của người khác. Nhưng Phật tử và tín đồ các tôn giáo khác tin rằng, khả năng này có thể phát triển đến một trình độ không những tâm từ bi của chúng ta phát khởi không cần chút cố gắng mà còn vô điều kiện, vô phân biệt và phổ cập toàn cầu. Một tình thương bao trùm khắp cả chúng sinh muôn loài, kể cả những kẻ làm hại ta, chẳng khác gì thứ tình yêu của bà mẹ dành cho đứa con duy nhất.

Nhưng ý nghĩa về sự cảm mến này đối với tất cả mọi người không thể xem như dẫn đến một điểm kết thúc. Đúng hơn nó còn được hiểu như là một tấm ván nhún đẩy bật lên một tình thương cao cả hơn. Bởi vì khả năng của sự mến thương là bẩm sinh và năng lực của lý luận cũng vốn tự nhiên sẳn có. Do vậy, chúng ta có khả năng phát triển lòng từ bi rất kiên cố và liên tục. Nó không phải là nguồn tài nguyên có thể dùng đến khánh tận như nước khi ta đun sôi thì khô cạn.

Mặc dù từ bi có thể được diễn tả như một hoạt động, nhưng lại không giống như sinh hoạt vật lý, ví dụ như nhảy cao chúng ta chỉ có thể luyện tập đến một mức độ nào đó, chứ không thể vượt quá hơn được. Trái lại, khi nâng cao sự xót thương trước nổi khổ đau của người khác qua tấm lòng rộng mở của chúng ta cùng lúc phát triển được tâm từ bi đến mức độ có thể rất cảm động trước nổi khổ đau tinh tế nhất của kẻ khác vì nhận biết rõ trách nhiệm đối với họ. Điều này khiến cho người có tâm từ bi sẽ tích cực hết lòng cứu giúp mọi người thoát khổ và những nguyên nhân tạo khổ. Trình độ cao thượng này ở Tây Tạng được gọi là nying je chenno, có nghĩa là “ddại từ bi”.

Ở đây, tôi không đưa ra ý kiến bảo rằng mỗi cá nhân đều cần phải đạt đến tình trạng tiến bộ của sự phát triển tinh thần này để dẫn đến một đời sống đạo đức lương thiện. Tôi đã diễn tả nying je chenno không phải vì đó là điều kiện trước hết của hành vi đạo đức nhưng đúng ra vì tôi tin rằng khi thúc đẩy lý luận về từ bi đến một trình độ cao nhất thì có thể  tạo thành một nguồn cảm hứng mạnh mẽ. Nếu chúng ta có thể giữ khát vọng ấy để phát triển nying je chenno hay tâm đại bi như một lý tưởng, nó sẽ có tác dụng trọng yếu đến quan điểm của chúng ta.

Căn cứ trên sự hiểu biết đơn giản là, cũng như tôi, mọi người khác đều muốn có hạnh phúc và không thích khổ đau; bởi vậy cần ứng dụng nó như sự nhắc nhở thường xuyên chống lại tâm ích kỷ và phân biệt. Nó gợi ý rằng nếu ta có lòng tốt và rộng lượng với hy vọng sẽ được đền đáp thì kết quả thành tựu rất ít. Nó nhắc nhở rằng các hành động nhằm chủ đích mong cầu danh thơm tiếng tốt cho mình vẫn còn là ích kỷ, mặc dù bề ngoài việc làm trông như có vẽ nhân đạo. Nó cũng lưu ý chúng ta rằng chẳng có gì đặc biệt trong các việc làm từ thiện đối với những bà con thân thuộc. Và nó sẽ giúp chúng ta nhận biết rằng thành kiến dành cho các gia đình và bạn bè hẳn nhiên là điều không đáng tin cậy trong việc xác định hành vi đạo đức.

Nếu đặc biệt chúng ta chỉ dành thực hiện việc làm từ thiện giúp đỡ cho những người thân quen thì điều tai hại là có thể ta sẽ quên trách nhiệm đối với các người không quen biết xa lạ bên ngoài. Tại sao vậy" Bởi lẽ khi những cá nhân đó tiếp tục thoả mãn điều ước vọng của ta thì mọi việc đều tốt đẹp. Nhưng nếu họ không giúp ta thành công thì người mà hôm nay ta xem như bạn thân, ngày mai có thể trở thành kẻ thù tệ hại nhất.

Như chúng ta đã thấy, ta thường có phản ứng xấu đối với những người đe doạ không đáp ứng được các ham muốn cuồng nhiệt nhất, mặc dù họ là người bạn rất thân của chúng ta. Vì lý do đó, lòng từ bi và kính trọng lẫn nhau đưa ra một căn bản vững chắc hơn cho sự giao hảo giữa chúng ta với người khác. Điều này cũng đúng trong tình bạn đời. Nếu ta yêu một người vì sự lôi cuốn bề ngoài hay vài đặc điểm giả tạo nào khác của họ, thì tình cảm ta dành cho người đó sẽ dễ tan biến theo thời gian.

Khi họ đánh mất sức quyến rủ hay lúc ta nhận thấy nhàm chán bất mãn điều ấy, tình trạng có thể hoàn toàn thay đổi mặc dù cũng vẫn con người đó. Cho nên sự liên hệ yêu thương được xây dựng thuần tuý trên vẻ đẹp hấp dẫn, là điều không có gì chắc chắn. Hơn nữa, khi ta bắt đầu phát triển toàn hảo lòng từ bi thì bề ngoài hoặc thái độ của người đó không ảnh hưởng gì đến cách cư xử của ta.

Thêm nữa, tình cảm của ta đối với người khác thường hay dựa vào hoàn cảnh của họ. Phần đông chúng ta khi tiếp xúc với những kẻ tật nguyền đều cảm thấy xót thương cho họ. Nhưng khi thấy người nào có học thức, giàu sang hay địa vị hơn mình, lập tức ta sanh tâm ganh ghét và tranh đua với họ. Tình cảm tiêu cực này sẽ ngăn cản chúng ta không nhận biết được sự giống nhau giữa chúng ta và người khác. Chúng ta quên rằng, cũng như ta, dù gặp may hay rủi, bà con gần hoặc xa, họ đều mong có hạnh phúc và không thích khổ đau.

Như vậy, sự tranh đấu nhằm để vượt qua những tình cảm phân biệt đó. Chắc hẳn phát triển được lòng từ bi chân thật dành cho các người thân yêu vẫn là nơi thích đáng để khởi đầu. Ảnh hưởng hành động của chúng ta dành cho người quý mến vẫn thường lớn hơn trên những kẻ khác, do đó trách nhiệm của ta đối với họ cũng nặng hơn. Tuy nhiên, ta cần nhận biết rằng cuối cùng, không có nền tảng nào để phân biệt dành quyền ưu tiên cho họ.

Trong ý nghĩa này, tất cả chúng ta đều cùng đứng ở vị trí của một bác sĩ trước mười bệnh nhân cùng mắc phải một chứng bệnh. Họ đều đáng được chữa trị bình đẳng như nhau. Tuy nhiên, điều cần được nêu rõ ở đây không phải là thái độ thờ ơ phân biệt. Một thử thách căn bản khác là khi chúng ta khởi sự mở rộng lòng từ bi đến tất cả mọi người tức chúng ta duy trì được cùng một trình độ thân thương mà ta muốn mang đến cho những người gần gũi nhất. Nói khác, điều đề nghị là chúng ta cần phải cố gắng trong ý hướng dành cho tất cả mọi người một nền tảng trên đó chúng ta có thể gieo trồng hạt giống của tâm đại từ và đại bi.

Nếu chúng ta có thể khởi đầu liên hệ với những người khác trên căn bản bình đẳng như thế, lòng từ bi của chúng ta không còn phân biệt người này là chồng tôi, kẻ khác là vợ tôi hay thân nhân, bạn bè v..v…. Đúng hơn, một tình cảm thân thương đối với những kẻ khác sẽ phát triển trên nhận thức đơn giản là, cũng như tôi, tất cả mọi người đều muốn hạnh phúc chứ không thích khổ đau. Nói cách khác, chúng ta sẽ bắt đầu thương yêu kẻ nghèo khó trên căn bản họ là một chúng sanh. Chúng ta có thể nghĩ đến điều ấy như một lý tưởng, một điều rất khó đạt tới. Nhưng theo tôi nghĩ, đó là nguồn cảm hứng rất sâu xa và phúc lạc.

Bây giờ ta thử xét đến vai trò của tâm từ bi và tình thương trong cuộc sống hằng ngày. Phải chăng lý tưởng phát triển nó đến mức độ trở thành vô điều kiện nghĩa là ta phải dứt bỏ hoàn toàn các quyền lợi cá nhân" Không hẳn thế. Ngược lại, đó là phương cách tốt nhất để phục vụ chúng sanh. Có thể bảo đó là xây dựng sự tự lợi sáng suốt nhất" Bởi lẽ nếu bảo rằng các đức tính như tình thương, nhẫn nhục, khoan dung và tha thứ bao gồm hạnh phúc con người trong đó là đúng hay nếu nói rằng lòng từ bi vừa là nguồn gốc và kết quả của những thiện tánh trên cũng hoàn toàn không sai chút nào; nếu như vậy, khi tâm ta càng từ bi, thì ta lại càng có nhiều hạnh phúc. Do đó, mọi ý tưởng liên hệ đến các người  khác, nếu nhằm mục đích lợi ích cho đời sống cá nhân thì dù đó là đức tánh cao thượng, vẫn trở thành hẹp hòi và thiển cận. Tâm từ bi nằm trong mọi lãnh vực của sinh hoạt, và dĩ nhiên bao gồm cả nơi chúng ta làm việc.

Ở đây, tôi muốn đưa ra một nhận thức được nhiều người nhìn nhận là từ bi, nếu không phải là một trở ngại, thì ít ra cũng là điều không thích hợp cho đời sống nghề nghiệp. Cá nhân tôi nghĩ rằng chẳng những thích hợp mà nếu thiếu tâm từ bi, sinh hoạt của chúng ta sẽ bị đe doạ huỷ diệt. Bởi vì khi ta không biết đến vấn đề ảnh hưởng của hành động đối với sự an lạc của người khác, ta có thể làm hại đến họ. Luân lý của từ bi giúp ta xây dựng một nền tảng và sự thúc đẩy cần thiết cho cả hành động kiềm chế lẫn trau giồi đức hạnh. Khi ta khởi đầu thực sự biết quý trọng giá trị của từ bi, quan điểm của ta đối với người khác tự động sẽ thay đổi. Chỉ riêng điều này có thể tạo một ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư cách đạo đức trong đời sống chúng ta.

Chẳng hạn như khi cám dỗ của sự lường gạt kẻ khác khởi dậy, lòng từ bi dành cho họ sẽ ngăn cản không cho chúng ta thực hiện ý định xấu ấy. Và khi nhận biết rằng việc làm của mình đang có nguy cơ bị lợi dụng để gây tổn hại cho người khác, tâm từ bi sẽ giúp ta ngừng không làm điều đó. Hảy tưởng tượng trường hợp một khoa học gia đang nghiên cứu một đề án nhằm gây đau khổ cho đồng loại, nhờ từ bi, họ sẽ nhận ra và hành động thích đáng, ngay cả có thể huỷ bỏ luôn kế hoạch tàn ác ấy. Trái lại nếu nhà khoa học tiếp tục hành động theo chiều hướng làm tổn hại cho tha nhân, có thể tạo thành các hậu quả bất lợi cho chính họ và gia đình.

Cũng thế, những người làm các dịch vụ chăm sóc y tế; cố vấn, công tác xã hội vân vân hoặc ngay cả các nhân viên chăm nom người già tại nhà, đôi khi cảm thấy mệt mõi vì công việc vượt quá sức mình. Sự thường xuyên tiếp xúc với nổi khổ đau, đôi khi sẽ tạo

nên một ý tưởng như bắt buộc chịu đựng, có khi đưa đến cảm thấy bất lực và tuyệt vọng. Hoặc có thể xảy ra điều cá nhân làm việc từ thiện đó chỉ vì công tác phải làm hay hành động chỉ theo nhu cầu đòi hỏi. Điều này dĩ nhiên còn tốt hơn không làm gì hết.

Nhưng nếu không tự kiểm thảo, việc này có thể dẫn đến sự mất cảm giác đối với nổi khổ đau của người khác. Nếu nó bắt đầu xảy ra, tốt hơn là nên tạm ngưng bỏ một thời gian, và nỗ lực thận trọng hầu đánh thức tính dễ cảm xúc đó. Trong vấn đề này, cần nên nhớ rằng tuyệt vọng không bao giờ là một giải pháp tốt. Đúng hơn, điều ấy là sự thất bại hoàn toàn. Cho nên, một thành ngữ Tây Tạng nói rằng, dù cho sợi dây bị đứt làm chín khúc, ta cũng phải cố gắng nối lại mười lần. Bằng cách đó, dù cuối cùng ta vẫn thất bại, ít ra ta sẽ không có điều gì hối tiếc. Và khi phối hợp cái nhìn này cùng với sự nhận thức rõ ràng về khả năng giúp đỡ người khác của mình, chúng ta có thể bắt đầu phục hồi niềm hy vọng và tự tin.

Vài người có thể phản đối lý tưởng này trên căn bản là khi dấn thân cứu khổ tha nhân, ta sẽ rước khổ luỵ vào cho chính mình. Ở một giới hạn nào đó, điều ấy đúng. Nhưng tôi bày tỏ rằng, có sự phân biệt chủ yếu giữa kinh nghiệm khổ đau của chính ta và kinh nghiệm đau khổ khi chia xẽ cùng người khác. Trong trường hợp nổi khổ của riêng ta, dù là không phải tự nguyện, vẫn có một cảm nghĩ bị áp chế: dường như nó đến từ bên ngoài ta. Trái lại, chia xẽ nổi khổ đau cùng người khác, với một trình độ tự nguyện nào đó, nhưng tự nó cho thấy có một thứ nội lực. Bởi lý do đó, sự phiền bực do nó tạo nên còn ít khốc liệt hơn là sự đau khổ của riêng ta.

Hẳn nhiên, dù là một lý tưởng, ý niệm về phát triển lòng từ bi vô điều kiện, rất dễ gây cho ta sự nản lòng. Phần đông mọi người, kể cả tôi, phải tranh đấu mới có thể dễ dàng đạt tới trình độ đặt lợi ích của kẻ khác ngang bằng với quyền lợi của mình. Tuy nhiên, chúng ta không thể để cho điều ấy khiến ta thối tâm bỏ cuộc. Và trong khi chắc chắn có nhiều trở ngại trên con đường phát huy một cõi lòng rộng mở, ta lại có một nguồn an ủi sâu xa khi biết rằng hành động như thế là ta đang tạo các điều kiện cho hạnh phúc của chính mình.

Như tôi đã nói trên, khi ta càng thực lòng muốn cứu giúp kẻ khác thì năng lực và tự tin càng được phát huy, và ta sẽ có kinh nghiệm càng lớn lao về sự an lành và hạnh phúc. Nếu không phải vậy, thì chúng ta tự hỏi thử còn có phương cách nào khác chăng" Với bạo lực và gây hấn" Dĩ nhiên là không. Với tiền tài" Có thể đạt tới một mức nào đó, nhưng không xa hơn. Nhưng với tình thương, chia xẽ nổi đau khổ của người khác, nhận thức rõ ràng chúng ta và những người khác là một - đặc biệt là những kẻ không may mắn và nhân quyền bị tước đoạt - bằng cách giúp đỡ họ có hạnh phúc: đúng vậy. Qua tình thương, lòng nhân đạo và qua từ bi, chúng ta xây dựng sự thông cảm, hiểu biết giữa ta và người. Đó là cách rèn luyện sự đoàn kết và hoà hợp.

Lòng từ bi và tình thương không phải là các xa xỉ phẩm. Đó là nguồn an lạc trong nội tâm lẫn bên ngoài. Chúng là nền tảng cho sự sống liên tục của con người. Một mặt chúng tạo dựng việc làm bất bạo động. Mặt khác, chúng là nguồn gốc của các đức tính tâm linh như tha thứ, khoan dung và từ bi hỷ xả vân vân. Hơn nữa, đây hẳn là điều xây dựng, mang lại ý nghĩa cho mọi sinh hoạt của ta. Không có gì tự đắc khi học cao, không có gì kiêu hãnh khi giàu sang phú quý. Chỉ có con người với một tâm hồn vị tha mới có thể làm các điều hữu ích thực sự có giá trị.

Đối với những người nghĩ rằng đức Đạt Lai Lạt Ma không thực tế khi biện luận cho lý tưởng về tình thương vô điều kiện, tôi mong rằng họ hãy thử kinh nghiệm với nó. Họ sẽ phát hiện, nhận ra rằng khi chúng ta sống vượt lên trên sự ích kỷ hẹp hòi của điều lợi ích cá nhân, trái tim của ta sẽ rộng mở ngập tràn tình thương. Sự an lạc và hạnh phúc sẽ trở thành bạn hữu thường xuyên của ta. Nó phá tan các chướng ngại và cuối cùng tiêu diệt hành động vị kỷ là điều chống trái lại với tánh lợi tha. Nhưng quan trọng nhất, trên phương diện đạo đức, nơi nào có tình thương, sự quý mến, lòng tốt và tâm từ bi dành cho đồng loại, nơi đó tự động sẽ có hành vi đạo đức. Các hành động luân lý phước thiện tự nhiên phát sinh trong khuôn khổ của từ bi.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.