Hôm nay,  

‘chuyên Viên’ Tìm Phế Liệu

13/09/200500:00:00(Xem: 6982)
Bạn,
Theo báo quốc nội, tại Biên Hòa có một số cư dân đang kiếm sống bằng nghề nhặt phế liệu. Do phế liệu kim loại "lộ thiên" ngày càng ít, những người nhặt phế liệu phải chuyển sang cách đào, bới để tìm chúng dưới mặt đất. Và, để làm được công việc này có hiệu quả, họ đã áp dụng nguyên lý của máy dò mìn để chế tạo ra máy dò phế liệu có nguồn ngốc từ kim loại như sắt, nhôm, đồng, chì, kẽm v.v... Nhờ máy này, những người nhặt phế liệu có thể tìm kiếm ở mọi địa hình, dưới đất, dưới nước, dưới bùn.
Báo Đồng Nai cho biết: hiện nay, riêng tại thành phố Biên Hòa có không dưới 20 máy dò phế liệu nhưng chúng lại được chế tạo tại một số tỉnh miền Bắc và miền Trung. Cấu trúc máy dò khá đơn giản gồm: 2 cục pin có điện thế cỡ 12 volts, 1 bộ phận cảm ứng từ, 1 cần dò có gắn ở phía đầu cái mâm hay vòng dò và một cặp tai nghe. Khi thao tác, người sử dụng mở dòng điện, cầm cần dò huơ, rà cách mặt đất từ 1-3 tấc. Tín hiệu sẽ phát ra... te...te... liên tục, truyền dẫn qua tai nghe. Nếu tín hiệu ngưng bặt, là có phế liệu, cho dù đó là mảnh kim loại nhỏ bằng cái... nút áo, ở độ sâu cả mét. Cư dân Phạm Văn Thành ngụ phường Bình Đa (TP. Biên Hòa), có trên 20 năm sống bằng nghề nhặt phế liệu, trong đó có 9 năm sau này nhặt phế liệu bằng máy dò, cho biết thêm: "Máy dò tìm phế liệu xuất hiện từ khoảng năm 1996, tôi tìm mua nó ở tận Đà Nẵng. Giá hiện nay, tùy theo công suất "bắt" được phế liệu sâu hay cạn mà chúng có giá từ 500 ngàn đồng đến vài triệu đồng".

Cũng theo báo ĐN, đi đầu trong việc "hiện đại hóa" công việc nhặt phế liệu có lẽ là một số "dân ve chai" ở các phường Bình Đa, Hố Nai... Ở các khu vực này, từ mờ sáng người thì lọc cọc trên chiếc xe đạp, kẻ thì vun vút trên chiếc xe máy "quá đát". Họ đèo trên xe những chiếc máy dò, cùng xà beng, cuốc, xẻng, búa tạ... Họ tỏa đi khắp các nẻo đường trong và ngoài TP. Biên Hòa, có nơi xa hàng chục cây số. Địa bàn "làm nghề" của họ là các khu vực nhà cửa, đất đai đang giải tỏa, các bãi xà bần hay men theo các triền sông. Họ ít khi đi theo nhóm mà thường đi riêng lẻ. Cư dân Lê Như Giang, 30 tuổi, quê Thanh Hóa, ngụ ở phường Thống Nhất (TP. Biên Hòa) một trong những "chuyên viên" dò tìm cho biết: "Cách nhặt phế liệu bọn tôi dò tìm hầu hết đều quen mặt nhau, nhưng chẳng mấy khi đi chung với nhau. Do phế liệu chôn vùi dưới đất ngày càng ít đi, nếu tập trung nhiều người cùng dò thì rất dễ đụng máy, có khi dẫn đến... đụng chạm".
Bạn,
Báo ĐN ghi nhận rằng nhờ máy dò tìm nên việc phát triển phế liệu chôn vùi dưới đất khá dễ dàng. Nhưng có nhiều lúc để lấy được chúng lên từ tay... Thổ địa lại là chuyện có khi phải hì hục cả ngày, nếu gặp phải phế liệu có kích cỡ lớn và nằm sâu dưới đất. Cho nên, việc lôi được "cục, tảng" phế liệu lên mặt đất ngoài "công" phát giác của máy dò còn có "sự góp sức" của xà beng, búa tạ, cuốc, xẻng... là những vật bất ly thân của người nhặt phế liệu..

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Núi Cấm vẫn không ngưng các huyền thoại: từ nơi tu hành của các bậc kỳ nhân, cho tới nơi ẩn tích của các đaị võ sư danh trấn giang hồ, tới chuyện cọp ra nằm nghe tụng kinh.... và bây giờ là chuyện đại gia lên núi Cấm mua đất 'long mạch' để con cháu đời đời giàu sang phú quý.
Chuyện vừa mới xảy ra tại VN, làm biết bao nhiêu Phật Tử nản lòng: một nhà sư lên sân khấu hôn môi với ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng. Chưa hết, đây là buổi văn nghệ gây quỹ, nghĩa là sư đã phạm giới vui chơi văn nghệ. Chưa hết, sư lại lấy tiền ra mua một chai rượu -- Nghĩa là xài tiền chúng sinh cúng dường, và mua một món bị giới luật cấm.
Với lòng tin, chúng ta có thể nhìn ra đủ thứ hình Phật, Chúa, Tiên, Thánh... trên các chòm mây. Tất nhiên, nói thế chỉ đơn giản có ý rằng chính nhân loaị đã nhận ra đủ thứ hiện tượng tùy tâm hóa hiện. Có thể là có thật, cũng có thể là ảo tưởng. Nhưng ít nhất, niềm tin vào cảnh giới siêu hình sẽ gìn giữ chúng ta trong cương vực đaọ đức. Không dám làm ác nữa. Hoặc giả, sẽ giảm bớt làm ác.
Mỗi dân tộc đều có một nền văn hóa riêng biệt, trong đó âm nhạc là một mảng gìn giữ di sản trao truyền nhiều đời. Dĩ nhiên, qua thời gian rồi sẽ có những mảng biến mất, nhưng không vì thế mà chúng ta phải hấp tấp chạy theo nhạc Tây,
Có cầu, tất có cung. Đó là quy luật thị trường. Tự nhiên như thế. Có những chuyện muôn đời đã thấy như thế. Cứ nhìn vào thị trường cũng thấy, các cửa khẩu biên giới đang là nơi tuôn vào gà lậu, gạo lậu, điện thoại lậu, vàng lậu, vân vân... nghĩa là đủ thứ thượng vàng hạ cám.
Người nông dân trước giờ được ca ngợi là chỗ dựa của đảng và nhà nước CSVN, nhưng bây giờ thì hết rồi. Bất kể rằng, nông dân thời nào cũng muốn bình yên, vì muốn lo chuyện cơm no, áo ấm là đủ.
Ngày xưa, đọc truyện Tàu, cứ nghe chuyện dân giang hồ ưa đặt trạm để thu tiền mãi lộ, tớ chẳng hiểu bao nhiêu. Bây giờ ngẫm chuyện nước mình thì mới ngộ ra lắm chuyện.
Một thời chúng ta nghe chuyện rằng xã hội chủ nghĩa là nơi ai cũng có cơ hội bình đẳng, nơi ai cũng “làm theo lao động, hưởng theo nhu cầu,” nhưng rồi những hình ảnh mơ tưởng này đã tan vỡ từ mấy thập niên nay, kể từ khi Miền Bắc khám phá ra một Miền Nam của thịnh vượng, của tự do, của dân chủ, và của tử tế nhiều lần hơn.
Có vẻ như Việt Nam đang lạm phát văn bằng. Kể cả văn bằng Tiến sĩ. Chuyện mới lạ, nước vẫn nghèo, mà văn bằng Tiến sĩ đầy phố, chẳng thấy phát minh gì, chỉ thấy “thật, giả” không còn phân biệt nổi.
Đất nước vẫn còn lúng túng, cứ như dường chưa biết phải đổi mới giáo dục ra sao để có thể chạy kịp với các nước láng giềng.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.