Từ ngày kết hôn cho đến nay, vợ chồng chúng tôi làm thương nghiệp. Vợ tôi thường yêu cầu tôi đưa tiền mặt để bà ta giữ. Thực ra chúng tôi cũng cố gắng dành dụm, nhưng không muốn để tiền vào ngân hàng mà thường giữ tiền mặt tại nhà.
Gần đây, vợ tôi thay đổi tính tình, thường cùng bạn bè đi chơi khuya vào những ngày cuối tuần. Vì phải giao tiếp nhiều nên vợ tôi dạo này xài tiền khá phung phí, Đòi hỏi tiền bạc quá nhiều. Để có thể làm bằng chứng về việc tôi đã giao cho vợ tôi hơn $200,000 tiền mặt trong thời gian 8 năm qua. Tôi thường xuyên gọi điện thoại về nhà cho vợ tôi mỗi lúc tôi đến hãng làm, và thường nhắc lại cho vợ tôi biết rằng hiện bà ta đang giữ một số tiền khoảng chừng $215,000.
Vì mỗi lần tôi đưa tiền cho vợ tôi giữ tôi đều có ghi ngày tháng cùng số tiền, nên vợ tôi đã xác nhận về điều đó. Đồng thời vợ tôi cũng đã nhiều lần xác nhận là hiện thời bà vẫn còn giữ nguyên số tiền đó.
Tất cả những điều này tôi đều có ghi âm vào điện thoại cầm tay để làm bằng chứng.
Cách đây 6 tuần lễ, vợ tôi ngõ ý chia tài sản. Tôi bèn cho bà ta biết rằng nếu muốn chia tài sản thì số tiền $215,000 cũng phải được tính vào toàn bộ tài sản chung. Vợ tôi liền chối là không hề giữ tiền đó bao giờ cả. Tiền bạc mà tôi đưa là để lo cho gia đình hàng tuần, và bà ta đã xài hết rồi.
Tôi cho vợ tôi biết là tôi đã ghi âm toàn bộ những lời xác nhận của bà ta về việc đó, vì tiền đưa cho vợ tôi để dành hoàn toàn khác với tiền đưa để chi tiêu cho gia đình. Điều này đã được vợ tôi xác nhận. Tôi đã ghi âm toàn bộ những lần nói chuyện về vấn đề tiền bạc bằng máy điện thoại cầm tay của tôi.
Vợ tôi cho tôi biết rằng những gì tôi ghi âm là bất hợp pháp.
Xin LS cho biết là tôi có thể xử dụng những gì tôi ghi âm hầu làm bằng chứng để chia tài sản hay không"
Trả lời: Luật pháp Tiểu Bang NSW: Điều 5 (1) (a) “Đạo Luật về các Thiết Bị Nghe Lén” (Listening Devices Act) ngăn cấm cá nhân không được dùng dụng cụ nghe lén để ghi âm hoặc lắng nghe cuộc đàm thoại riêng tư mà cá nhân đó không phải là một bên đương sự trong cuộc điện đàm đó.
Điều 5(1)(b) cấm ghi âm cuộc điện đàm riêng tư dùø cá nhân đó là một bên đương sự trong cuộc điện đàm đó.
Điều 5(3) quy định rằng điều 5(1)(b) vừa nêu sẽ không được áp dụng nếu: Tất cả các bên đương sự trong cuộc đàm thoại đó đồng ý để cuộc đàm thoại đó được ghi âm.
Luật Pháp Liên Bang: Trong lúc đó điều 6 của “Đạo Luật Viễn Thông [về sự Nghe Lén]” (Telecommu- nication [Interception] Act) được Quốc Hội Liên Bang thông qua định nghĩa sự nghe lén qua hệ thống viễn thông gồm sự lắng nghe hoặc ghi âm, bằng bất cứ phương thức nào, khi cuộc điện đàm đó đi ngang qua hệ thống viễn thông mà người nói chuyện qua hệ thống viễn thông đó không hề hay biết.
Điều 6(2) quy định rằng khi một người có mặt một cách hợp pháp trên một tài sản mà tài sản đó được công ty viễn thông ráp đặt các dụng cụ viễn thông (a) lắng nghe hoặc ghi âm các cuộc đàm thoại qua hệ thống viễn thông đó; hoặc
(b) lắng nghe hoặc ghi âm cuộc đàm thoại được truyền đạt bình thường qua hệ thống viễn thông đó; hoặc
(c) lắng nghe hoặc ghi âm cuộc điện đàm qua hệ thống viễn thông đó vì có sự sai sót kỹ thuật do hệ thống viễn thông gây ra;
Thì sự nghe lén hoặc ghi âm đó không cấu thành tội nghe lén cuộc điện đàm.
Điều 138 của “Đạo Luật về Bằng Chứng 1995” Liên Bang (Evidence Act 1995) quy định rằng: Bằng chứng thâu đạt được (a) không hợp cách hoặc trái với luật lệ của nước Úc sẽ không được chấp nhận ngoại trừ việc chấp nhận bằng chứng đó có lợi hơn là việc không chấp nhận bằng chứng thâu đạt theo phương cách đó.
Trong vụ Byrne & Byrne [2002] Fam CA 887. Trong vụ đó, ông Byrne nộp đơn xin tòa án gia đình đưa ra án lệnh về việc cấp dưỡng. Trong tiến trình xét xử vấn đề được đặt ra là liệu bằng chứng về các cuộc điện đàm giữa ông Byrne và vợ của ông ta được ghi âm bằng điện thoại di có được chấp nhận hay không.
Ông Byrne đã khai trong “tờ khai hữu thệ” (affidavit) về những gì ông ta đã nói trong cuộc điện đàm với bà Byrne vào trưa ngày 16.2.2002. Bà Byrne đã không đưa ra sự phản đối nào về việc chấp nhận bằng chứng đó của ông Byrne.
Tuy nhiên, khi bà Byrne bị “đối chất” (cross examined) về nội dung của cuộc điện đàm thì bà ta đã không đồng ý với lời khai của ông Byrne.
Vị thẩm phán tọa xử bèn rời phòng xử và cho phép luật sư của ông Byrne mở cuốn băng ghi lại cuộc điện đàm cho bà Byrne nghe, và sau đó tiếp tục đối chất.
Bà Byrne bèn chấp nhận nội dung của cuộc điện đàm giữa bà và ông Byrne được ghi âm vào ngày 16.1.2002. Bà cũng chấp nhận rằng “tờ khai hữu thệ” của ông Byrne đã khai đúng nội dung của cuộc điện đàm. Tuy nhiên, bà vẫn cho rằng ông Byrne đã bỏ sót nhiều chi tiết trong cuốn băng vì ông đã không khai hết nội dung của cuộc điện đàm trong “tờ khai hữu thệ.”
Vào lúc đó, luật sư của ông Byrne xin được đệ nộp cuốn băng cho tòa, nhưng luật sư của bà Byrne đã phản đối.
Luật sư của bà Byrne căn cứ vào Điều 5 của “Đạo Luật về các Thiết Bị Nghe Lén” (Listening Devices Act) tại tiểu bang NSW và điều 138 của “Đạo Luật về Bằng Chứng 1995”Liên Bang (Evidence Act 1995), và tranh cãi rằng theo luật pháp của tiểu bang thì điện thoại di động là thiết bị nghe lén, và việc xử dụng điện thoại di động để ghi âm đã bị luật pháp của tiểu bang ngăn cấm, vì thế điện thoại di động phải bị loại bỏ theo điều 138 của “Đạo Luật về Bằng Chứng 1995” (Evidence Act 1995).
Luật sư của ông Byrne thì cho rằng việc ghi âm là hợp pháp theo điều 5(3) của “Đạo Luật về các Thiết Bị Nghe Lén” (Listening Devices Act), để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của ông Byrne.
Vị chánh án tọa xử bèn đề nghị luật sư của 2 bên đương sự đệ trình ý kiến về việc liệu có sự tương phản giữa đạo luật của tiểu bang “Đạo Luật về các Thiết Bị Nghe Lén” (Listening Devices Act), và đạo luật của liên bang “Đạo Luật Viễn Thông [về sự Nghe Lén]” (Telecommunication [Interception] Act) hay không"
Luật sư của bà Byrne cho rằng việc ghi âm bị ngăn cấm theo sự quy định trong điều 6 của “Đạo Luật Viễn Thông [về sự Nghe Lén]”vì có sự tương phản giữa luật pháp của tiểu bang và liên bang. Vì thế, theo luật sư của bà Byrne thì điều 6 không áp dụng cho việc ghi âm.
Tuy nhiên Tòa đã cho rằng luật pháp của Liên Bang được áp dụng cho điện thoại di động và việc ghi âm được cho phép. Vì thế, bằng chứng của ông Byrne được chấp nhận.
Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn, ông có thể thấy được rằng bằng chứng mà ông đã ghi âm được qua điện thoại di động về việc đã từng giao tiền cho người vợ của ông sẽ được chấp nhận trong việc tranh chấp tài sản nếu có sự tranh cãi trước tòa.
Nếu ông cón thắc mắc xin gọi điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp.
Lưu ý: Mặc dầu bằng chứng ghi âm qua máy điện thoại đã được tòa cho phép trong vụ này, tuy nhiên độc giả cần phải lưu ý về hậu quả pháp lý về việc ghi âm này.



