Hôm nay,  

Pháp Luật Phổ Thông

22/09/200800:00:00(Xem: 4447)
LS Lê Đình Hồ là tác giả cuốn “Từ Điển Luật Pháp Anh Việt-Việt Anh” dày 1,920 trang được xuất bản năm 2004. Qúy độc giả muốn mua sách, xin vui lòng liên lạc [email protected]]

Hỏi (ông Nguyễn T.K): Tôi lập gia đình vào năm 1993, chúng tôi có với nhau một cháu trai. Đến nay thì cháu đã được gần 14 tuổi.

Vào năm 1997 vì không hợp quan niệm sống nên chúng tôi đã sống ly thân và sau chúng tôi đã ly dị vào năm 1998. Sau khi ly dị, tôi đồng ý là mẹ của cháu được quyền nuôi dưỡng cháu, còn tôi thì được đến thăm nhưng phải sắp xếp trước.

Sau đó tôi về VN sinh sống. Cách đây gần 3 tháng mẹ của cháu đã qua đời. Hiện cháu đang ở với cậu mợ cùng ông bà ngọai.

Vì mẹ của cháu đã qua đời, nên tôi muốn đưa cháu về sống chung với tôi nhưng tòan thể gia đình của vợ tôi đã phản đối không cho tôi được quyền đó. Tôi chưa nộp đơn xin vì phải trở lại VN sắp xếp công việc đặng trở về Úc sống với cháu.

Xin LS cho biết là tôi có quyền hành xử quyền làm cha để đem cháu về đặng nuôi dưỡng hay không"

*

Trả lời: Trong vụ FY & SYS & Anor [2007] FMCA fam 2, “cha mẹ của Christopher, 13 tuổi, kết hôn tại và ly thân tại Trung Quốc khi Christopher được vài tháng tuổi. Họ ly dị vào năm 1996. Vào năm 2000, khi được 7 tuổi Christopher và mẹ di dân đến Úc. Từ đó bé sống tại Úc. Ba của bé sống tại Trung Quốc. Mẹ của bé bắt đầu có quan hệ trên mạng với ông Brown vào tháng 9.2005 nhưng chỉ sống với ông ta vài ngày trước khi được đưa vào bệnh viện với bệnh tình trầm trọng vào cuối tháng 11.2005. Bà ta qua đời vào ngày 14.12.2005” (Christopher, aged 13 years, his parents were married in China and separated there when he was a few months old. They divorced in 1996. Christopher and his mother migrated to Australia in 2000 when he was 7 years of age. He has lived in Sydney since then. His father lived in China. His mother commenced an internet relation with Mr Brown in September 2005 but only lived with him for a few days before being hospitalized with a serious illness at the end of November 2005. She died on 14.12.2005).

“Không lâu sau khi mẹ bé quá đời, cha của bé đến Úc ngày 23.12.2005, nhưng bé vẫn sống với ông Brown cho đến lúc bé rời Úc một mình vào ngày 25.12.2005 để sống với gia đình của mẹ bé tại Trung Quốc. Cha của bé đã không theo bé về Trung Quốc” (His father came to Australia on 23.12.2005, shortly after his mother’s death, but Christopher remained living with Mr Brown until he left Australia alone on 25.12.2005 to stay with his mother’s family in China. His father did not accompany him to China).
Vào cuối tháng giêng 2006, bé và dì của bé trở lại Úc để cho bé tiếp tục học tại trường CHS [a Co-educational Selective High School = Trường Trung Học Tuyển nam nữ học chung]. Từ đó bé sống với người dì, bà này đã mướn nhà của ông Brown tuy họ không có quan hệ tình cảm. Cha của bé cũng thường đến Úc vào năm 2006. Tuy thế, bé vẫn cương quyết không muốn sống với người cha.

“Cha của bé tin tưởng một cách mãnh liệt rằng bé phải sống với người cha ruột hơn là sống với bất cứ người nào khác. Trong đơn của ông nộp vào tháng 1.2006, người cha xin án lệnh là Christopher sống với ông ta, và rằng ông là người độc nhất chịu trách nhiệm phụ huynh về việc chăm sóc cho bé và rằng nếu ông ta không thể sống với bé vì vấn đề chiếu khán Úc thì bé phải được Bộ Dịch Vụ Cộng Đồng NSW chăm sóc” (His father strongly believes that Christopher should live with a biological parent in preference to anyone else. In his application filed in 1.2006, the father sought an order that Christopher live with him, that he have sole parental responsibility for his care and that if he is unable to live with Christopher due to Australian visa problems that Christopher be looked after by the Department of Community Services in NSW).

Bé Christopher chỉ gặp cha của bé 2 lần ngắn ngủi giữa năm 2000 và vào lúc mẹ của bé qua đời.

“Dì của bé xin án lệnh là Christopher tiếp tục sống với bà. Bà nói đây là những gì bé muốn, những gì mẹ của bé muốn và những gì tòan thể gia quyến của bà muốn” (His maternal aunt seeks an order that Christopher remain living with her. She says this is what Christopher wants, what his mother would have wanted and what her extended family wants). 

Ông Brown đã ủng hộ đơn xin của người dì. Ông Brown cho tòa biết là ông sẽ trở lại Ấn Độ để sống với cha mẹ của ông và không muốn nộp đơn xin tòa để được quyền tiếp tục thăm viếng bé. Tuy nhiên, ông tiếp tục liên lạc và hỗ trợ tài chánh cho bé.
“Người dì đang sống trong căn nhà do ông Brown mướn và có ý tiếp tục sống ở đó. Bà ta có ý định nộp đơn để thành thường trú nhân nếu Tòa cho phép Christopher sống với bà ta” (The maternial aunt is living in premises rented by Mr Brown and intends to remain living there. She intends to apply for permanent residence if the Court permits Christopher to live with her).

“Bản Tường Trình về Gia Đình” (a Family Report) đề nghị là Christopher sống với người dì theo ý muốn của bé, “và rằng bé không bị bắt phải lui tới hoặc liên lạc với cha của bé” (and that he is not forced to spend time or communicate with his father).

Tòa cho rằng đây là một trường hợp đáng buồn. Tòa tin rằng người cha muốn chăm sóc con trai của mình và muốn hòan tất nhiệm vụ làm cha. Tòa cũng biết được rằng người cha rất bối rối và ngạc nhiên là tại sao tòa không tự động cho phép ông ta được quyền nuôi dưỡng đưa con của ông.

Điều 65K của “Đạo Luật Gia Đình” (The Family Law Act 1975) quy định rằng nếu án lệnh quy định đứa bé sống với cha hoặc mẹ, và trong án lệnh đó không quy định đứa bé sẽ sống với ai nếu người cha hoặc mẹ đó qua đời, thì người cha hoặc mẹ còn lại không thể yêu cầu đứa bé đó phải sống với mình khi người cha hoặc mẹ kia qua đời.

Bản tường trình còn cho biết rằng “vì Christopher không gần gủi với người cha, Christopher khó có thể triển khai sự quan hệ mặn nồng với người cha trong một tương lai có thể thấy trước được” (because Christopher has no attachment to the father, there is no possibility of Christopher developing a meaningful relationship with the father in the foreseeable future).

Tòa đồng ý rằng bé Christopher có quan hệ rất gần gủi với người dì. Người dì cũng cho tòa biết rằng “bà giống như là người mẹ thứ hai đối với Christopher trong cuộc đời của bé” (she has been like a second mother to Christopher all his life).

Cuối cùng Tòa đưa ra án lệnh cho phép người dì được nuôi dưỡng đứa bé. Người dì phải báo cho cha của bé địa chỉ cùng số điện thọai của bà và khi thay đổi phải báo cho người cha biết trong thời gian 7 ngày.

Người cha cũng phải cho người dì biết số điện thọai cùng địa chỉ và nếu có thay đổi thì phải thông báo cho người dì trong vòng 7 ngày.

Người cha có quyền gởi thư, thiệp và điện thọai cho Christopher, và người dì phải trợ giúp trong việc này. Christopher có quyền đi chơi với người cha nhưng điều này là do sự quyết định của Christopher.

Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn ông có thể thấy được rằng việc ông muốn đòi giữ đứa con 14 tuổi của ông khi vợ ông qua đời, điều này không phải là một quyền mặc nhiên mà hòan tòan do đứa bé quyết định. Điều này hòan tòan tùy thuộc vào tình cảm của ông đối với cháu trước đây. Nếu tình cảm của ông đối với cháu mặn nồng thì không một ai có thể ngăn cấm sự lựa chọn và sự trở về của cháu. Bằng ngườc lại luật pháp không thể buộc cháu phải trở về sống với ông khi mẹ cháu qua đời.

Nếu ông còn thắc mắc xin điện thọai cho chúng tôi để được giải đáp.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.