Hôm nay,  

Luật pháp phổ thông (02/06/2007)

06/02/200700:00:00(Xem: 3213)

Luật pháp phổ thông

[LS Lê Đình Hồ là tác giả cuốn “Từ Điển Luật Pháp Anh Việt-Việt Anh” dày 1,920 trang vừa được xuất bản. Qúy độc giả có thể mua sách qua internet bằng cách lên Website Google (google.com) đánh máy chữ “ho ledinh”, rồi theo sự hướng dẫn của các websites.]

Hỏi (Bà Trần Q. Anh): Tôi và chồng tôi ly dị được gần 2 năm. Chúng tôi có với nhau một cháu trai 4 tuổi.
Sau khi ly dị, chồng tôi đã nộp đơn xin tòa để được nuôi con. Suốt trong thời gian còn sống chung, chúng tôi đã để cháu ở với ông bà nội và chỉ đem cháu về với chúng tôi vào những ngày cuối tuần.
Tòa cho tôi được phép nuôi dưỡng cháu, riêng chồng tôi thì được quyền thăm và đưa cháu đi chơi vào 2 ngày cuối tuần từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều.
Gần đây tôi yêu cầu chồng tôi ký vào đơn xin passport, để tôi đưa cháu về Việt Nam thăm ông bà ngoại, với lý do là ông ngoại bị bệnh nặng đang nằm tại bệnh viện.
Chồng tôi không đồng ý để cho đứa con trai theo tôi về Việt Nam, sợ rằng cháu sẽ bị bệnh, bị tai nạn, hoặc bị bắt cóc, vì thế việc đưa cháu về Việt Nam là điều mà chồng tôi hoàn toàn không đồng ý.
Tôi cho chồng tôi biết rằng nếu ông ta không chịu ký vào đơn xin thì tôi sẽ nhờ luật pháp can thiệp. Tôi báo cho ông ta biết rằng bằng mọi cách tôi sẽ đưa đứa con trai của tôi về Việt Nam trong dịp này để cháu biết mặt ông ngoại của cháu.
Xin LS cho biết là liệu tòa có cho phép tôi đưa cháu về Việt Nam hay không. Trước đây khi tranh chấp về việc nuôi dưỡng, tòa có ra lệnh là tôi không được đưa cháu ra khỏi nước Úc nếu không có sự đồng ý của chồng tôi, hoặc nếu không có lệnh của tòa.

*

Trả lời: Trong vụ HRS & HRK [2005] FMCAfam 548, người vợ cũng là người mẹ của 2 đứa con trai nhỏ, 5 tuổi và 7 tuổi, đã nộp đơn xin “Tòa Sơ Thẩm Liên Bang” (Federal Magistrate Court) được đưa 2 đứa con rời khỏi nước Úc để đi nghỉ hè tại Ấn Độ, trong thời gian từ 15.11.2005 đến 22.1.2006.
Người chồng không đồng ý ký vào đơn xin hộ chiếu. Vì thế, người vợ xin tòa đưa ra án lệnh “yêu cầu người cha ký vào đơn xin hộ chiếu, nếu không, thì viên chánh lục sự của tòa sẽ ký vào đơn xin” (require the father to execute a passport application or, failing that, the Registrar would do it).
Vào lúc nộp đơn xin, 2 đứa con sống với người mẹ tại Queensland còn người cha sống tại Bang New South Wales. Cả 2 vợ chồng người gốc Ấn Độ. Người chồng đến Úc trước, sau đó người vợ đi du lịch tại Úc và kết hôn với ông ta tại đây.
Lý do người vợ muốn đưa các con về Ấn Độ vì cha mẹ của bà di dân đến Canada cũng đã về thăm. Người vợ cũng muốn về thăm ba má, tức là ông bà ngoại của 2 đứa con trai. Đồng thời cũng nhân dịp này thăm lại bà ngoại của bà, tức là bà cố của 2 đứa con trai. Bà cố vào lúc đó đã 95 tuổi, ở Ấn Độ, nhưng không thể đi đứng vững vàng được. Người vợ cho rằng các con của bà cần phải gặp ông bà ngoại, và bà cố ngoại của chúng, để chúng biết được mối quan hệ gia đình.
Người chồng đã phản đối đơn xin này vì cho rằng không có lý do gì để về nghỉ hè tại Ấn Độ, và phản đối hoàn toàn về đề nghị đưa 2 đứa nhỏ rời Úc để đi Ấn Độ.
Những lý do mà người chồng đưa ra để phản đối đơn xin này là:
(1) Ấn Độ không phải là quốc gia ký kết“Quy Ước Hague chống Việc Bắt Cóc Trẻ Em” (The Hague Convention on Child Abduction), vì thế điều này rất khó khăn cho người chồng để được bảo đảm rằng các đứa trẻ sẽ trở lại Úc; (2) người chồng lo lắng rằng đa số thành viên thuộc gia đình của người vợ hiện đang sống tại Canada, mặc dầu Canada là quốc gia ký kết “Quy Ước Hague” nhưng người chồng vẫn sợ rằng người vợ sẽ cố ý lưu lại tại Ấn Độ, rồi sau đó sẽ đến Canada khi thời hạn khởi động tố quyền bị triệt tiêu không còn cho phép người chồng nộp đơn khiếu nại theo sự quy định của “Công Ước Hague”.


Người chồng và cha mẹ của ông còn cho rằng việc đưa các đứa bé đi Ấn độ trong lúc này không có lợi ích gì vì chúng còn quá nhỏ. Hơn nữa, không cần phải đi Ấn Độ để hiểu biết về văn hoá của người Sikh, vì tại Úc cũng có cộng đồng người Sikh đang duy trì truyền thống văn hóa của họ.
Người chồng lo lắng là các đứa bé sẽ bị bệnh trong lúc ở tại Ấn. Ông ta cho rằng “Ấn là một quốc gia rộng lớn, đông dân cư, nhưng tại một vài khu vực nước uống có lẽ không được an toàn như tại Úc” (India is a large, populous nation, but in some areas the water supply is not perhaps as safe as that which obtains here in Australia).
Người chồng còn cho rằng việc đưa 2 đứa con đi Ấn sẽ làm cho đứa lớn mất nhiều tuần phải bỏ học. Hơn nữa việc ngồi trên máy bay 14 giờ, rồi việc thay đổi giờ giấc, sẽ làm cho các đứa nhỏ mệt mỏi, và sẽ ảnh hưởng đến tâm sinh lý, phải cần một thời gian ngắn để ổn định.
Trước những luận điểm của 2 bên, Tòa đã lưu tâm đến 5 yếu tố như đã được xét xử trong vụ Kuebler v Kuebler (1978) FLC: (1) Thời gian rời nước Úc; (2) Sự chân thật trong đơn xin; (3) ảnh hưởng đối với các đứa trẻ khi chúng bị gián đoạn sự liên lạc với người cha; (4) sự đe dọa đến phúc lợi của các đứa bé trong môi trường mới; (5) mức độ thỏa mãn mà tòa có thể thấy được về việc cha, hoặc mẹ của đứa bé sẽ đưa chúng về lại Úc.
Tòa còn đề cập đến các yếu tố được xét xử trong vụ Line v Line (1979) FLC 92-729. Trong vụ đó, tòa đã đưa ra 4 nguyên tắc: (1) đóng tiền thế chân; (2) mức độ rủi ro mà người cha, hoặc mẹ không chịu đưa đứa bé về lại Úc; (3) quốc gia đó có ký kết “Công Ước Hague” hay không; (4) tình trạng tài chánh của các bên đương sự và mức độ tiền thế chân phải đóng.
Tòa đồng ý rằng “cần phải cho các đứa bé một thời gian hợp lý sau khi đi du lịch để lấy lại sức và vượt qua được những triệu chứng khác do cuộc hành trình dài gây ra trước khi chúng đi học lại” (the need for the children to have a reasonable time after travelling in order to overcome the fatigue and other symptoms involved with long distance travelling before they go back to school).
Riêng vấn đề liệu việc đi du lịch tại Ấn sẽ ảnh hưởng đến phúc lợi của các đứa bé hay không, thì Tòa cho rằng Ấn Độ là một quốc gia lớn, bất ổn tại một vài khu vực, cũng như có những vấn đề y tế cần phải quan tâm. Nhưng tòa lại cho rằng người vợ sinh trưởng tại Ấn, và chắc chắn rằng bà sẽ biết cách lưu tâm để bảo vệ, cũng như giữ gìn sức khỏe cho 2 đứa nhỏ. Hơn nữa, bà là một công dân Úc, 2 đứa con của bà sinh đẻ tại Úc, bà muốn chúng được trưởng thành và giáo dục tại Úc.
Cuối cùng tòa đã cho phép người vợ đưa 2 đứa con đi Ấn Độ từ ngày 9.12.2005 đến ngày 20.1.2006, với điều kiện là người vợ cung cấp cho người chồng lịch trình của chuyến đi và về. Trong vòng 7 ngày sau khi trở lại Úc, người vợ phải giao nộp hộ chiếu của các đứa nhỏ cho Viên Chánh Lục Sự của Tòa, và cả vợ lẫn chồng không có quyền lấy hộ chiếu của các đứa nhỏ ngoại trừ có sự đồng ý của nhau, hoặc có án lệnh của tòa. Người vợ phải đóng $5,000 đô tiền thế chân.
Dựa vào phán quyết vừa trưng dẫn bà có thể thấy được rằng việc ông không chịu ký tên vào đơn xin hộ chiếu chỉ có thể làm trì hoãn chuyến về Việt Nam của bà.
Thông thường, nếu có lý do chính đáng, trong trường hợp của bà, với bằng chứng là người cha của bà đang bị bệnh nặng và đang nằm điều trị tại bệnh viện, với đơn xin khẩn cấp, chắc chắn Tòa sẽ đưa ra án lệnh để yêu cầu chồng bà ký vào đơn xin hộ chiếu cho đứa nhỏ, và nếu ông ta không chịu ký, viên chánh lục sự của tòa sẽ ký vào đơn xin để đứa nhỏ được cấp hộ chiếu. Chồng của bà chỉ có thể yêu cầu tòa buộc bà phải đóng tiền thế chân, cho ông biết rõ hành trình đi và về, cũng như có thể xin tòa giới hạn thời gian mà bà định lưu lại tại VN.
Nếu bà còn thắc mắc xin gọi điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Viện Kiểm Soát Nhân Dân Tối Cao tại Việt Nam đã đề nghị ngưng thi hành án lệnh hành quyết với tử từ Hồ Duy Hải để điều tra lại vụ án này, theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do cho biết hôm 2 tháng 12.
Tuần báo OC Weekly đã viết twitter cho biết đóng cửa sau khi chủ nhân là công ty Duncan McIntosh Company đóng cửa tuần báo giấy một ngày trước Lễ Tạ Ơn.
Cha mất rồi. Em buồn lắm, vì không về thọ tang Cha được. Em đang xin thẻ xanh. Sắp được phỏng vấn. Vợ chồng em định năm sau, khi em đã thành thường trú nhân, sẽ về thăm Cha Mẹ. Ngày tạm biệt Cha lên đường đi Mỹ du học bốn năm trước, đã thành vĩnh biệt.
Tôi khẳng định những việc tôi làm là đúng đắn và cần thiết để kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn. Những gì tôi làm không liên can đến vợ con và gia đình tôi. Vì thế, tôi yêu cầu công an Hồ Chí Minh chấm dứt ngay việc sách nhiễu, khủng bố gia đình tôi.
Brilliant Nguyễn là một thanh niên theo trường phái cấp tiến và chủ thuyết Vô Thần (*). Chàng ta không tin ma quỷ đã đành mà cũng chẳng tin rằng có thần linh, thượng đế. Để giảm bớt căng thẳng của cuộc sống, theo lời khuyên của các nhà tâm lý và bạn bè, chàng ta đến Thiền Đường Vipassana ở Thành Phố Berkeley, California để thực hành “buông bỏ” trong đó có rất nhiều cô và các bà Mỹ trắng, nhưng không một ý thức về Phật Giáo
Có những câu chuyện ngày xửa ngày xưa mà chẳng xưa chút nào. Có những chuyện hôm nay mà sao nó xa xưa vời vợi. Chuyện ngày xưa... Có một ngôi chùa ở vùng quê thanh bình, trước mặt là đồng lúarì rào, cánh cò chao trắng đồng xanh. Trong chuà có vị hoà thượng già hiền như ông Phật, lông mày dài bạc trắng rớt che cả mắt...
Ông Gavin Newsom, Thống đốc tiểu bang California, đã tuyên bố ân xá cho hai người đàn ông từng dính vào hai vụ hình sự khác nhau khi họ mới 19 tuổi và đang mong muốn không bị trục xuất về Việt Nam.
Hoang Nguyen, 43 tuổi, bị bắt và bị truy tố về tội trộm sau khi bị cho là đổi nhãn giá trên hơn ba mươi chai rượu vang tuần trước, theo hồ sơ tòa.
Bé ngọc ngà của Mẹ cố thở chút không khí ít oi còn trong buồng phổi. Giây phút cuối. Để ngàn sau dân Hong Kong sống xứng đáng Con Người.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.