Hôm nay,  

Luật Pháp Phổ Thông

28/11/200500:00:00(Xem: 6231)
[LS Lê Đình Hồ là tác giả cuốn “Từ Điển Luật Pháp Anh Việt-Việt Anh” dày 1,920 trang vừa được xuất bản. Qúy độc giả có thể mua sách qua internet bằng cách lên Website Google (google.com) đánh máy chữ “ho ledinh”, rồi theo sự hướng dẫn của các websites.]

Hỏi (Bà Bùi Thanh Thủy): Tôi lập gia đình vào năm 1989. Hiện chúng tôi có với nhau hai bé gái 10 tuổi và 7 tuổi. Vào đầu năm 2004, sau khi đồng ý tự nguyện nghĩ việc, chồng tôi đã lãnh được một số tiền gần $200,000. Ông đã dùng số tiền này để trả hết nợ căn nhà, số còn lại ông quyết định cùng hùn hạp với người bạn và về Việt Nam tìm các nguồn hàng thích hợp để nhập cảng.

Tuy nhiên, sau khi trở lại Úc vào tháng 8 năm 2004, tính tình của chồng tôi hoàn toàn thay đổi, ông ta không còn chăm sóc và lo lắng cho gia đình như trước đó.

Ông ta thường liên lạc về Việt Nam bằng cách mua những tấm thẻ gọi điện thoại mà không còn dùng điện thoại nhà như trước đây nữa. Tôi có hỏi ông về lý do thì được giải thích rằng ông không muốn phải trả tiền Bill một lúc quá nhiều.

Vào tháng 12 năm 2004, tôi tình cờ đọc được một lá thư gửi từ Việt Nam cho chồng tôi qua địa chỉ hộp thư của Bưu Điện. Sau khi đọc xong lá thư đó, tôi hoàn toàn thất vọng vì biết được rằng chồng tôi đã dối gạt mẹ con tôi từ trước tới nay.

Tuy nhiên, tôi đã cố gắng bình tỉnh và yêu cầu ông ta cho biết rõ sự việc. Thay vì giải thích về sự việc, ông ta đã lớn tiếng cãi vả và có những thái độ trấn áp tôi. Sau khi cãi vả, ông ta đã tự động mang những đồ đạc cá nhân của ông ta và cho tôi biết rằng ông ta sẽ đến tá túc tại nhà của một người bạn và yêu cầu tôi từ nay đừng tìm gặp ông ta nữa.

Với các chứng cớ vừa nêu, tôi biết được rằng tình cảm trong con người của ông ta đã hoàn toàn thay đổi.

Xin LS cho biết là tôi có thể nộp đơn xin ly dị với ông ta ngay được không" Từ ngày ông ta rời Úc để đi làm việc tại Việt Nam tính đến nay đã được hơn 12 tháng.

Trả lời: Điều 48(1) của Đạo Luật Gia Đình 1975 quy định rằng đơn xin ly dị phải được căn cứ vào lý do là “hôn nhân đã đổ vỡ không thể nào hàn gắn được” (the marriage has broken down irretrievably).

Điều 48(2) quy định rằng án lệnh về “việc giải trừ hôn nhân” (dissolution of marriage) sẽ được đưa ra, nếu, và chỉ nếu khi nào tòa đã thỏa mãn được rằng “các bên đương sự đã ly thân và sau đó đã sống tách biệt và riêng lẻ” (the parties separated and thereafter lived sepately and apart” trong một thời gian liên tục ít nhất là 12 tháng ngay trước khi nộp đơn xin ly dị.

Tòa sẽ không cho ly dị nếu thấy rằng có sự trở lại chung sống giữa hai vợ chồng [Điều 48(3)].

Điều 51(1) Đạo Luật Gia Đình quy định rằng khi vợ chồng đã ly thân một thời gian, nhưng sau đó vì lý do này hay lý do khác họ đã quyết định “trở lại sống chung với nhau” (the resumption of cohabitation), tuy nhiên sau khi chung sống lại với nhau chưa được 3 tháng, họ lại ly thân cho đến ngày nôp đơn ly dị , thì “thời gian sống ly thân và riêng biệt trước và sau khi trở lại sống chung đó có thể được tính gộp lại như là thời gian sống ly thân liên tục và riêng biệt” (the periods of living separately and apart before and after the cohabitation may be aggregated as if they were a continuous period of living separately and apart).

Vấn đề được đặt ra ở đây là khi nào bà và chồng bà được xem là đã thực sự ly thân.

Trong vụ hôn nhân của Tye (In the Marriage of Tye). Trong vụ đó, hai vợ chồng đã kết hôn tại Melbourne vào ngày 17 tháng 3 năm 1973, người chồng sinh tại Nam Kinh, Trung Hoa vào năm 1948 hồi đó được 25 tuổi, và người vợ sinh tại Victoria vào năm 1953 và lúc đó chưa tròn 20.

Vào ngày 1-1-1975, người chồng đã rời Úc và đi làm việc tại Tân Gia Ba (Singapore), người vợ vẫn tiếp tục ở lại Melbourne, rồi từ đó hai vợ chồng không còn sống chung với nhau nữa. An lệnh đã được đưa ra vào tháng 2-1976 liên hệ đến vấn đề tài sản và ly dị của hai vợ chồng.

Khi người cồng rời Úc để đi Singapore, người chồng đã báo cho vợ biết rằng sau khi ổn định ông ta sẽ đón bà ta đến để chung sống. Tại Melbourne, người vợ đã bán tất cả các đồ đạc còn lại của gia đình gồm bàn, tủ, giường, ghế vì nghĩ rằng bà ta sẽ đi Singapore để chung sống với chồng sau đó.

Nhưng vào cuối tháng 2 bà ta đã nhận được một lá thư do chồng đương sự gửi về và báo cho bà ta biết rằng ông ta sẽ không trở lại để chung sống với bà nữa.

Bằng chứng cho thấy rằng cho đến lúc người vợ nhận được thư của người chồng, bà ta vẫn tin tưởng rằng không có một sự rạn nứt nào trong hôn nhân và trong cuộc sống lứa đôi của họ cả. Tuy nhiên, vào cuối tháng 2 năm 1975, cả hai bên đương sự đều nhận thức được rằng hôn nhân của họ đã tan vỡ, và rằng không có một viễn ảnh nào cho sự hòa giải hầu trở lại sống chung nữa.

Theo chứng cớ được trưng dẫn thì hai bên đương sự đã thự sự ly thân từ tháng 1 năm 1975. “Đơn xin ly dị [đơn xin giải trừ hôn nhân]” (the application for dissolution of the marriage) đã được đệ nộp vào ngày 29 tháng 1 năm 1976.

Điều này có nghĩa là đơn xin ly dị đã được nộp hơn 12 tháng sau khi hai người thực sự ly thân [được tính vào lúc người chồng rời Úc để đi Singapore], nhưng chưa được 12 tháng nếu tính từ lúc người vợ biết được rằng hôn nhân của bà ta đã tan vỡ.

Mặc dầu việc nộp đơn ly dị trong vụ đó đã không theo đúng thời gian luật định [là phải ly thân ít nhất 12 tháng], nhưng tòa đã xét rằng sau khi đến Singapore chừng một tuần lễ, người chồng đã có ý định là sẽ không đưa vợ mình đến đó để cùng sống chung nữa, vì thế, tòa cho rằng thời gian ly thân đã hội đủ nên đã chấp thuận cho hai vợ chồng ly dị.

Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn bà có thể thấy được rằng ngoại trừ bà có thể trưng dẫn được bằng chứng để chứng minh rằng khi rời nước Úc để đi phục vụ tại Việt Nam, chồng bà đã có ý định sẽ không trở lại chung sống với bà nữa, hoặc bà biết được rằng đời sống hôn phối của vợ chồng bà đã thực sự tan vỡ từ ngày đó. Tuy nhiên, theo những gì bà kể lại trong thư, nếu không có bằng chứng để chứng minh ngược lại, thì thời gian ly thân của bà thực sự khởi đầu vào tháng 12 năm 2004. Vì thế, để có thể nộp đơn xin ly dị, bà phải đợi đến tháng 12 năm 2005, khi thời gian ly thân đã hội đủ 12 tháng theo luật định.

Theo những gì bà kể trong thư thì sau khi trở lại Úc, chồng của bà đã cùng bà sống chung một nhà, tuy nhiên, nếu bà và chồng bà không còn xem nhau như vợ chồng thì thời gian cùng sống chung cùng nhà vẫn được tính là thời gian ly thân.

Trong trường hợp bà và chồng của bà cùng sống chung một nhà và không còn quan hệ với nhau như vợ chồng, thì tòa đòi hỏi bà phải đính kèm “tờ khai hữu thệ” (affidavit) khi nộp “đơn xin ly dị” (application for divorce). Tờ khai hữu thệ này phải được làm bởi bạn bè hoặc người thân của bà, mà người đó biết được rằng mặc dầu bà cùng chồng của bà sống chung một nhà, nhưng quan hệ vợ chồng đã chấm dứt từ lâu [12 tháng hoặc hơn 12 tháng].

Nếu bà còn thắc mắc xin điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp thêm.


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.