Hôm nay,  

Từ Sudan Đến Palestine

17/01/200500:00:00(Xem: 6550)
Ngày 9-1-05, trong khi ở thủ đô Nairobi của xứ Kenya Châu Phi diển ra lể ký kết hoà bình giủa chính phủ Sudan và phe phiến quân thì tại Trung Đông nhân dân Palestine cũng đón mừng tin ông Mamoud Abbas thắng cử làm Chủ tịch Nhà nước. Cuộc nội chiến đẩm máu ở Sudan kéo dài 21 năm và cuộc chiến tranh du kích ôm bom tự sát kéo dài 40 năm giửa người Palestine và người Israel, là 2 trong những nổi nhức nhối nhất của con người. Trong bối cảnh còn nhiều phiền nảo sau cơn động đất sóng thần Tsunami, những tin vui như vậy cũng làm nhân loại an ủi được phần nào.
Sudan là một nước lớn ở đông Châu Phi, phía nam Ai Cập, có hải cảng Port Sudan nhìn ra Biển Đỏ (Red Sea). Sudan thu hồi độc lập năm 1956 nhưng từ đó đến nay chỉ được hưởng hoà bình có10 năm, còn lại là chiến tranh tương tàn. Nguyên nhân chính là vì trước khi thực dân đến, đó là nơi tranh chấp về thế lực của nhiều bộ tộc theo Hồi giáo và Đa thần, quen sống lối sứ quân; và sau khi thực dân đi, là nơi tranh chấp về tài nguyên, giáo quyền, có sự nhúng tay của kẻ ra đi mong thủ lợi lâu dài. Sudan miền bắc, trong đó có thủ phủ Khartum, đất đai khô cằn, dân cư đông đúc, sinh kế khó khăn, phần đông theo Hồi giáo. Miền nam trái lại, sông Nile đem nước phù sa tưới mát nhiều nơi, đất đai mầu mở, kinh tế khả quan, và có mỏ dầu hoả. Phần đông cư dân ở miền nam theo đạo Thiên Chúa. Sự pha trôn các yếu tố khác biệt về tài nguyên, sắc tộc và tôn giáo làm cho cuộc nội chiến ở Sudan phức tạp.
Hoà ước ký ngày 9-1 chỉ để kết thúc cuộc nội chiến lớn nhất, chứ chưa phải là chấm dứt hết xung đột ở nhiều địa phương khác, như ở Darfur. Hoà ước cho phép kể từ tháng 7-05 miền nam được tự trị và sau 6 năm, sẽ tổ chức trung cầu dân ý để xem dân chúng có còn muốn tiếp tục chung sống như thế không, hay muốn thành lập quốc gia tiêng. Trong thời gian đó, lãnh đạo Phe nổi dậy (SPLA) là ông John Garang, được cử làm phó Tổng thống thứ nhất trong chính phủ trung ương và nguồn tài nguyên dầu hỏa của miền nam được chia đôi, chính quyền trung ương và địa phương, mỗi bên một nữa.
Mừøng vui vì chấm dứt chiến tranh, lãnh tụ John Garang nói " Thay vì sự than khóc của phụ nữ, và những đau đớùn của cuộc chiến tranh 20 năm, hoà bình sẽ đến với chúng ta mang theo tiếng cười của trẻ thơ". Mơ về một đất nước an bình hơn, Tổng thống Sudan tuyên bố "Thoả thuận nầy dọn đường để chấm dứt chiến tranh và làn sóng người tỵ nạn tại Darfur. Chúng tôi quyết tâm hành động để chấm dứt bạo lực ở đó và tao điều kiện đàm phán hoà bình". Đại diện cho nước có công lớn nhất trong việc thúc đẩy tiến trình hòa bình, ngoại trưởng Hoa Kỳ, ông Colin Powell trong buổi lể ký kết phát biểu: "Đây là một ngày mang lại nhiều hứa hẹn cho người dân Sudan. Tôi kêu gọi tất cả các bên hãy giành lấy cơ hội lịch sử nầy, để chuyển hoá Sudan từ một nước tả tơi vì chiến tranh, thành một quốc gia đoàn kết trong hòa bình".
Trong khi còn quá nhiều lo âu về ăn mặïc, bệnh tật, tội ác và thiên tai thì hòa bình là nhu cầu khẩn thiết giúp con người yên ổn xây dựng cuộc sống. Ông Powell nói đúng. Mọi người cần phải nắm lấy cơ hội hòa bình, đoàn kết để mưu tìm hạnh phúc và cũng để sự độc ác, vô nhân và các tham vọng xấu xa khác của con người không có nơi sinh sôi nẩy nở.
Hai dân tộc Israel và Palestine cũng đang đứng trước một triển vọng hòa bình tương tự.

Rẻo đất chạy dài dọc theo bờ biển đông nam Địa Trung Hải từ điểm cực nam Ezio- geber nằm trên Biển Đỏ (Red Sea) ngược lên phía bắc cho đến vùng Jordan, Libanon và Syria là nơi sống biết bao đời của hai dân tộc Israel và Palestine. Tài nguyên ở đó không có gì quan trọng nhưng về phương diện lịch sử, nhất là lịch sử tôn giáo, thì thành phố Zeruzalem là thánh địa của Do Thái giáo và 2 tôn giáo lớn khác là Thiên Chúa giáo và Hồi giáo. Sự tranh chấp giửa Israel và Palestine không đơn giản là tranh chấp về lảnh thổ mà còn là tranh chấp thánh địa.
Theo nghị quyết của Liên Hiệp Quốc thì cả Palestine và Israel đều có quyền thành lập quốc gia riêng của mình ở quê hương cũ.
Từ năm 1948 người Israel đã nhanh chóng thành lập Nhà nước. Họ văn minh, giàu có, đoàn kết và quyết tâm hơn nên trong thời gian ngắn đã xây dựng Israel thành một cường quốc trong vùng về nhiều mặt, nhất là về quân sự. Người Palestine thì trái lại, trình độ thấp, sống chia rẽ, ý thức về dân tộc kém, mãi cho tới khi thấy người Israel chiếm hết lãnh thổ của mình thì tinh thần quốc gia mới trổi dậy. Năm 1968 họ thành lập Tổ chức giải phóng Palestine(PLO) và năm 1974 mới thành lập quốc gia. Lúc đó thì đã không có đất căm dùi, trụ sở chính quyền phải đặt tạm thời ở Libanon, đến năm 1993 mới dời dược về trên vùng đất tự tri ở Bờ Tây, Dải Gaza.
Vô tổ chức, tự phát, chia rẽ và lạc hậu là nét đặcï trưng của sự nghiệp chiến đấu giành độc lập của người Palestine. Điều đó giải thích tại sao họ có chính nghĩa mà phải chiến đấu đẩm máu, xã thân lâu dài, mà đến nay vẩn chưa giành thắng lợi. Có người nói, người Palestine có thừa cái dũng để ôm bom tự sát làm anh hùng hay thánh tử vì đạo, nhưng thiếu cái trí để thấy rằng, đối kháng vỏ trang không phải là ưu thế của ho,ï khi đối đầu với Israel. Cái ưu thế của họ nằm ở chổ chính nghĩa, trong lãnh vực chính tri và ngoại giao.
Khi vận động tranh cử, ông Abbas từng yêu cầu các lực lương vỏ trang Palestine như Hamas, Jihah, và Al-Aqsa từ bỏ bạo lực. Ngay sau khi đắc cử, ông cũng bày tỏ lòng mong muốn nối lại hòa đàm với với Israel, dựa trên lộ trình hòa bình được quốc tế ủng hộ. Thái độ ôn hoà, biết người biết ta, trọng thị dư luận quốc tế là ưu điểm của người mới vừa đắc cử. Ông sẽ còn tiến xa trong việc thu phục cảm tình của số đông thế giới còn lại, vốn ôn hòa, xưa nay công nhận người Palestine có chính nghĩa, nhưng không đồng tình với phương cách tiến hành chiến tranh khủng bố, sát hại không thương tiếc thường dân vô tội.
Về phiá Israel, xu hướng hoà bình cũng đang hình thành trong quần chúng và các đảng phái chính trị. Chính phủ liên minh hai đảng Likud và Công đảng do ông Sharon làm Thủ tướng đã thông qua kế hoạch rút các trại đinh cư người Israel ra khỏi Bờ Tây và Dải Gaza, để biểu thị thiện chí. Một việc mà cách đây một năm, tưởng chừng không bao giờ thực hiện được. Hơn ai hết người Israel hiểu rằng sức mạnh quân sự có giá trị rất tương đối. Bài học ở Afghanistane và Iraq còn đó. Chỉ có giải pháp chính trị hợp lý, tôn trọng lẻ phải và công bằng, mới mong xây dựng dược một khu vực hòa bình lâu dài.
Dù rằng thành phần quá khích của hai bên - phần đông được thủ lơi do chiến tranh , còn viện dẩn nhiều lý do để phá hoại tiến trình hoà bình. Nhưng như thuỷ triều, khi con nước đã lên thì xá gì rào dậu, bờ be.
Trong lịch sử của mình, Viện Hà Lâm Thụy Điển đã hai lần trao Giải Hoà bình cho những người có công trong việc đem lại ôn định ở vùng Trung Đông: ông Raiph J. Bunch, công dân Hoa Kỳ, năm 1950 -về công lao hoà giải xung đột Israel - Palestine, và các ông Menachen Begin, công dân Israel, ông Anwar el-Sadat, Tổng thống Ai Cập, năm 1978 - về công lao chấm dứt xung đột Israel -Ả Rập.
Điều đó chứng tỏ thế giới luôn luôn quan tâm theo dõi đến tiến trình hoà bình của hai dân tộc Israel và Palestine.
Đặng Đình Long
14-1-05

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.