Hôm nay,  

Quan Họ Bắc Ninh

29/03/200500:00:00(Xem: 6502)
Mở đầu: Quan Họ Bắc Ninh là một bộ môn nghệ thuật dân gian đã phổ biến rộng rãi qua sách báo, băng nhựa, trên nhiều mạng lưới điện tử khác nhau trong và ngoài nước. Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử văn học vẫn còn tìm hiểu về nguồn gốc, biến thái của bộ môn nghệ thuật hát "vo" dân gian có từ nhiều thế kỷ qua. Một phần dữ kiện về Quan họ trong bài viết giải thích bởi một chuyên viên trong ngành và được bổ túc một số thiếu sót trích dẫn từ các tài liệâu nêu trên. Trong khuôn khổ giới hạn của bài báo, người viết sẽ không đi sâu về lịch sử, nguồn gốc, thể loại của bộ môn này, nhưng bạn đọc sẽ được thưởng lãm nhiều hình ảnh tiêu biểu về Quan Họ Bắc Ninh qua ống kính một số nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp.
Nhân chuyến thăm quê nhà, xây đắp lại mồ mả tổ tiên hoang phế từ thời chia cắt đất nước, chúng tôi có dịp trở lại thăm làng Diềm (Viêm Xá) thuộc tỉnh Bắc Ninh, một làng có tiếng về bộ môn hát Quan Họ, vội ghi lại một số hoạt cảnh của một duyên cơ hiếm có, diện đối diện với nhiều nghệ nhân Quan họ làng Diềm, được xem và nghe lại họ tái diễn phong tục hát Quan họ cổ truyền, từ phong cách tiếp rước, hội họp, trò chuyện, đối đáp các bài ca dân gian được truyền khẩu từ nhiều thế kỷ qua. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi của chuyến thăm viếng, thiếu sót là việc khó tránh. Hy vọng nhà nghiên cứ bộ môn Quan họ Bắc Ninh, bạn đọc có kinh nghiệm ít nhiều về bộ môn cổ truyền này, bổ khuyết các thiếu sót, nếu có.
*
Bắc Ninh quê hương Quan họ, diện tích khoảng 804 cây số vuông, gần một triệâu dân, cách Hà Nội về phía Tây Bắc khoảng 30 cây số, theo quốc lộ 1A. Đường sá xây cất từ thời Pháp thuộc, chật hẹp, ít được sửa chữa, nhà cửa dân cư mọc lên ngổn ngang dọc hai bên đường, khiến xe chúng tôi mất hơn 1 giờ để đến làng.
Diềm là một trong 49 làng Quan họ của Bắc Ninh. Hai làng Bịu (Bịu Sim, Bịu Trung) và Diềm nổi tiếng nhất về bộ môn này. Mỗi làng có hơn 10 "bọn" hát Quan họ nổi tiếng. Mỗi "bọn" Quan họ có khoảng từ 4 đến 6 người, họ đối xử với nhau như anh em trong nhà, gọi nhau theo thứ tự tuổi tác, bắt đầu từ chưcù vị anh Cả, chị Cả, anh Ba, chị Ba tiếp tục đến người cuối.
Anh K., người hướng dẫn viên của chúng tôi cho biết anh đã đi lại làng Diềm nhiều lần để ghi nhận, chụp nhiều hình ảnh sinh hoạt Quan họ cho Cơ quan Văn Hóa Liên Hiệp quốc. Anh giải thích chữ "bọn" có hàm ý chỉ các nhóm, các đoàn Quan họ. Ngày xưa chữ này có ý nghĩa tốt đẹp, không như chúng ta hiểu chữ " bọn" theo nghĩa xấu của ngày nay.
" Từ Quan họ có nhiều định nghĩa và nguồn gốc khác nhau" Anh K. nói.
Dân Quan họ truyền miệng cho rằng người làng Bịu và Diềm là hai nơi có sự nối kết bền vững lâu đời. Dân các làng này khẳng định là tiếng hát đó phát xuất từ hai họ nhà quan kết bạn với nhau qua truyền thuyết lịch sử, Trạng Bịu, tức Nguyễn Đăng Đạo, đỗ Trạng Nguyên năm 1684, người Hoài Thượng, huyện Tiên Du, cho rằng cụ Trạng Bịu là cha đẻ ra bộ môn hát Quan họ.
Vùng Cẩm Khuê (Bùi Xáù huyệân Yên Phong) nói ngược lại, họ cho rằng Quan họ là lối hát giữa quan viên hai họ nhà trai và nhà gái trong dịp đám cưới lễ dạm ngõ được gọi tắt là Quan họ.
Người vùng Che, Quả Cam, Thị Cầu thi vi hóa Quan họ với truyền thuyết, Chúa Trịnh Sâm đi du xuân, thấy cô con gái đang cắt cỏ trên núi Chè (Núi Long Khám hay núi Quả Cam, đến nay chữa ai xác định được vị trí của núi Chè), vừa cất cỏ vửa yêu đời hát:
Tay cầm bán nguyệt xênh xang
Bao nhiêu cây cỏ lai hàng tay ta.
Tiếng hát làm Vua, Quan phải họ (dừng lại) để nghe. Ngắm người đẹp, hát hay, bài hát lại mang khẩu khí "Trị và Bình", nên chúa Trịnh cho mời về cung để trở thành bà Chúa. Dân gian đồn đại tiếng hát đó đã tạo nên sự may mắn, hạnh phúc như cô thiếu nữ quê mùa mộc mạc đó, nên người có dọng hát hay, yêu thích văn nghệ đua nhau học và hát ngày một lan rộng theo thời gian, trở thành lối hát Quan Họ.
Cũng có truyền thuyết cho rằng hát Quan họ bắt nguồn từ Lý Công Uẩn chạy giặc , dân vùng Hồi Quan (Tiên Sơn) ùa ra đường hát làm Quan, Quân phải họ (dừng lại) để Lý Công Uẩn chạy thoát.
Nguồn gốc có khác nhau, nhưng bộ môn hát cổ truyền này ngày một phát triển, có trường đào tạo trở thành nghệ nhân hát Quan họ. Ngoài các làng truyền thống Quan họ của tỉnh Bắc Ninh ra, người ta có thể tìm đến Văn Miếu, đền Ngọc Sơn (giữa hồ Hoàn kiếm) hay nhiều hàng quán quanh Hà Nội nghe hát Quan họ. Tuy nhiên, du khách khó có thể tìm được sắc thái nguyên thủy của bộ môn Quan họ như các làng thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Đặc tính của hát Quan họ là cách hát "vo" . Vo là thổ ngữ của vùng Quan họ, dùng để nói về cách hát truyền khẩu, không ghi chép trên giấy, không có âm nhạc phụ diễn, người hát Quan họ phải có giọng hát tốt, truyền cảm, biết luyến láy, ngâm thơ, giữ đúng cung nhịp để hấp dẫn người nghe.
Ngày nay, người ta thấy hát Quan họ có nhiều dụng cụ âm nhacï cổ truyền, cả trống chiêng phụ diễn, dấu hiệu Quan họ biến hóa theo thời gian, phù hợp với nhu cầu phát triển của con người, thích hợp cho các buổi trình diễn thương mại.
Các bài hát Quan họ xuất hát từ ca dao, đồng dao, thơ văn thích hợp với cảnh sinh hoạt đồng quê và Kiều của Nguyễn Du, Cung Oán Ngâm Khúc ảnh hưởng mạnh mẽ đến các bài hát Quan họ. Một số nghệ nhân có óc sáng tạo dựa trên các vần thơ này, biến đổi thành các bài hát Quan họ truyền bá trong dân gian từ đời này qua đời nọ.
Trong câu hát Quan họ " Bây giờ gặp mặt nhau đây mà cứ ngỡ như chuyện chiêm bao", cho người ta liên tưởng đến 2 câu thơ trong Kiều:
Bây giờ gặp mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao
Câu hát Quan họ để khen bạn mới kết nghĩa " Thưa anh Hai , anh Ba….. thật là thơm cây, thơm rễ, người giồng (trồng) cũng thơm, đấy ạ", phát xuất từ câu ca dao:
Người như hoa quế thơm lừng
Thơm cây, thơm rễ, người giồng cũng thơm.
Trang phục chính gốc của liền anh, liền chị Quan họ ngày xưa rất giản dị, thích hợp cho khung cảnh đồng áng quanh năm. Phái nam thường thường mặc áo dài 5 thân, cổ đứùng có lá sen, viền tà, gấu to, dài đến quá đầu gối một chút. Họ thường mặc bên trong một, hai áo cánh, rồi đến chiếc áo dài mầu trắng, và chiếc áo dài bên ngoài là loại vải mỏng mầu đen để có thể nhìn xuyên qua chiếc áo bên trong. Họ luôn mặc quần trắng, ống rộng, may kiểu chân què, dài tới mắt cá chân và chân đi dép Gia định, sang hơn chút nữa đánh đôi giầy da đen, du nhập từ nước ngoài. Trên đầu đội chiếc khăn xếp mầu đen. Dù nắng hay mưa, liền ông Quan họ luôn có trong tay chiếc dù trông như cụ Lý trong làng, để xử dụng khi cần thiết. Phong cách ăn mặc của họ ngày nay vẫn còn gĩư được nét cổ kính.
Ngày xưa, người ta thưởng gọi các cô Quan họ mặc áo mớ ba (3 áo dài mặc lồng vào nhau) , mớ bẩy (7 áo dài nhỏ to cùng 1 lúc). Thông dụng nhất vẫn là kiểu áo mớ ba cho bớt nóng. Aùo dài của các cô cũng 5 thân, cài khuy, khác với kiểu tứ thân thắt hai vạt trước thường thấy trong hội hè, đình đám, cưới hỏi hiện nay. Mầu áo của phái nữ xoay quanh một hai mầu đậm, từ nâu già đến mầu nâu non, mầu đen, hay mầu cánh dán. Trên đầu vấn khăn vành đen, không giống khăn mỏ quạ.
Thời gian làm thay đổi trang phục các liền chị Quan họ, các cô vẫn mặc áo mớ ba như xưa, tuy nhiên mầu sắc thay đổi so với sắc mầu cổ truyền, bao gồm mầu sặc sỡ như xanh dương, xanh da trời, hay mầu lá chuối non hòa hợp với mầu đỏ rực rỡ, mầu hồng đáng yêu pha trộn với mầu nâu, đầu vấn khăn vành dây thích hợp với mầu áo sặc sỡ nhất , vui mắt khách thưởng ngoạn hát Quan họ.
Nói đến phong thái của liền Anh, liền Chị Quan họ, anh K. giải thích thêm họ là những người đàn anh đàn chị và muốn được thành "liền anh", "liền chị", họ cần thuộc lòng và biết hát trên 200 bài Quan họ dưới nhiều thể loại khác nhau như :
- Hát kết chạ: giữa bọn Quan họ của hai làng khác đã kết nghĩa với nhau trong dịp lễ hội của làng.
- Hát lễ thờ: trong đình làng có ngày lễ hội qua giọng La rằng để chúc Thánh, chúc dân làng an lành, mùa màng gặt hái tốt, và nhiều lộc, nhiều thọ cho dân làng.
- Hát mừng: trong dịp ăn khao, thành đạt, mời dân làng cùng đến chia vui và nghe hát Quan họ với người đứùng ra tổ chức.
- Hát hội: có lẽ là canh hát Quan họ vui nhất trong năm. Bắt đầu từ 28 tháng 2 âm lịch, liên tiếp các hội làng diễn ra trong vùng Quan họ. Đây là dịp các liền anh liền chị tấp nập mời nhau đi các hội làng để vui Xuân, vui hội, gặp bầu, gặp bạn ở hội đình. Hộâi làng Lim có lẽ đông và vui hơn cả. Trong dịp này các anh nhớn , chị nhớn Quan họ dẫn dắt các em nhỏ, em nhỡ (15-16 tuổi) Quan họ cùng tham dự tham dự để học hỏi, thành thạo, mạnh dạn về ca hát, cũng là dịp tìm bọn khác giới, khác làng để kết bạn.
Sau hội hè làng Lim, dân Quan họ Bắc Ninh chờ đợi, rủ nhau gặp lại vào đầu tháng Tư:
Dù ai buôn bán trăm nghề
Tháng Tư, mồng Tám thì về chùa Dâu
Dù ai buôn bán đâu đâu
Nhớ ngày mồng Tám, hội Dâu thì về ….
- Hát giải hạn: mê tín ảnh hưởng mạnh mẽ đến dân quê, nhà nào hay ai gặp nạn, gặp hạn, họ thường nhờ đến bọn hát Quan họ trong làng đến hát để giải hạn.
- Hát canh: hay gọi là hát ca (xuất hát), thường diễn ra vào mùa Xuân, mùa Thu, mùa của hội chùa, hội đình làng giữa các bọn Quan họ với nhau, họ kháo nhau hát cho vui của, vui nhà, vui đình, vui chùa, vui xóm, vui làng. Mỗi canh hát thường bắt đầu từ 7, 8 giờ tối kéo dài đến 2, 3 giờ sáng và có thể kéo dài trong 2,3 đêm liên tiếp.

- Hát cầu đảo: người Quan họ, cũng như nông dân trên đất Quan họ tin rằng mưa nắng thuận hòa là do âm dương hòa hợp giữa con người và trời đất. Khi có hạn hán, thiên tai, một số đền trong vùng thường tổ chức hát Quan họ để cầu đảo (mưa) hay tránh được tai ương đến với làng. Đặc biệt canh hát cầu đảo chỉ có liền chị Quan họ. Trước khi hát liền chị Quan họ phải giữ lòng chay tịnh, đến ăn ngủ tại cửa đền để hát 2, 3 ngày đêm liên tiếp. Họ không được hát các bài tình tứ, giao duyên, chỉ hát các bài có nội dụng cầu cho mưa thuận gió hòa, cầu cho tai qua nạn khỏi và hát bằng dọng La rằng, như vậy mới linh thiêng, thấu đến tai thánh thần.
Sự giao lưu Quan họ giữa nhóm này và nhóm nọ, giữa làng trên với làng dưới đều có một nghi thức đáng quí, một nề nếp phải tuân theo. Nề nếp Quan họ đòi hỏi mọi người khi đến với Quan họ đều phải lịch sự, trang nhã từ trang phục, cử chỉ, ngôn ngữ, khi ăn, khi nói, khi đứng, khi ngồi, cho đến việc đãi nhau miếng trầu, mới nhau miếng thuốc.
Khi họ này muốn mời nhóm Quan họ khác đến chơi nhà, thăm làng nhau. Sau khi hẹn hò, nhóm quan họ khách thường cử 2, 3 người qua thăm nhà chủ, làng chủ. Họ thường mang chút trầu cau làm đầu câu chuyện:
Năm, năm mới, tháng, tháng Xuân
Trước là thăm Thầy, thăm Me
Chúc Thầy, chúc Mẹ sống lâu giầu bền
Sau là thăm anh Hai, anh Ba, anh Tư, anh Năm ....
Xin phép Thầy Mẹ cho anh Hai, anh Ba ….
Đến vui hội cùng làng em, cùng chúng em
Ca vui một canh cho vui dân, vui hội,
Cho chúng em học đòi , đối lối đôi câu …..
Lời giải thích về Quan họ bắc Ninh của anh K. giúp chúng tôi quên cả thời gian di chuyển. Đến làng vào xế ngọ, anh dẫn chúng tôi vào miếu làng Diềm, đốt nén hương cho phải đạo mỗi khi du khách đến thăm làng.
Giữa đình là một cái giếng thật rộng miệng. Mọi người trong làng đều tin tưởng uống nước giếng này chữa được nhiều bệnh tật, nhất là bệnh đường ruột. Các bô lão ngày ngày ra giếng lấy nước về pha trà. Họ nói một cách tin tưởng, khâm phục thần làng luôn phù hộ cho họ. Đời này qua đời khác, mọi người trong làng đều xem nước giếng này như một loại nước thánh, gìn gĩư sức khỏe cho dân làng.
Đến đầu đình, chúng tôi đã thấy cụ Tình, 82 tuổi tươi cười đón chúng tôi vào nhà sơi nước. Cụ gọi con cháu đi báo cho các nghệ nhân khác đến đón chào khách quí từ phương xa đến.
Một loáng, các cụ nghệâ nhân Quan họ làng Diềm trong trang phục cổ truyền chỉnh tề đã họp mặt đông đủ. Cụ Tình và cụ Dành là hai anh em ruột, hai cụ là anh Hai, chị Hai của bọn Quan ho. Cụ Hợi, là chị Ba. Cụ Thìn là anh Ba. Tám con mắt nhìn về hướng cụ Dành, chúng tôi ngạc nhiên một cụ bà tuổi gần 90, tinh nhanh, khuôn mặt trái soan, đôi mắt bồ câu, chiếc mũi dọc dừa, mẫu người lớn tuổi đẹp hiếm có.
Anh K. cho biết cụ là một giai nhân trong làng, biết bao nhiêu bọn liền Anh Quan họ làng trong, làng ngoài chết mê chết mệt vì hương sắc của cụ khi còn tuổi xuân xanh. Anh cho biết thêm gái làng Diềm nổi tiếng là xinh đẹp, nhiều người hát nổi tiếng, nôi sản xuất nhiều nghệ nhân trong bộ môn Quan họ.
"Xin các bác quá bộ đến nhà Chứa". Cụ Dành mời.
Chúng tôi nhìn anh K. như dọ hỏi về danh từ nhà "Chứa" của cụ Dành vừa nói. Cụ bà hiểu ý, liền giải thích "Nhà chứa là nơi dùng để chứa chấp các liền Anh liền Chị Quan họ từ các làng khác qua hát khi có hẹn, nơi tụ họp để luyệân tập, huấn luyện cho các đàn em, nơi thi thố tài năng ca hát giữa các bọn Quan họ trong làng. Nơi đây cũng làm chiếc đền nhỏ để cúng kiếng, thờ phượng các bậc tiền nhân tạo dựng ra bộ môn Quan họ do dân làng dựng lên". Thêm một lần nữa, chúng tôi bị lầm tưởng từ nhà "chứa" theo nghĩa hiện đại.
Chúng tôi gạn hỏi cụ về thủa vàng son, cụ lảng qua chuyện khác, giới thiệu 2 cô cháu gái, tuổi vừa trăng tròn, sẽ hát cho chúng tôi nghe trước khi các em đi học. Cô bé Xuân Đào, Xuân Hương, tuổi vừa 16, trong trang phục rực rỡ. Một cô trong chiếu áo nâu sòng, lồng trong áo dài đỏ tím, cô kia mầu áo xanh dương, cả hai đều vấn khăn vành giây đỏ tía hòa diệu với sắc mầu áo quần, như hậu duệ của Trưng Trắc Trưng Nhị.
Trong lúc hai cô thử dọng hát cho canh hát đột xuất, chúng tôi sửa soạn máy ảnh, định vị trí cho mỗi người để chụp hình. Những chiếc chân ba càng (tripod) dựng lên, máy ảnh gắn sẵn để chụp lại hình ảnh sống động. Hai em sửa soạn lại trang phục, chải chuốt mái tóc, vấn lại chiếc khăn vành dây, vừa tập hát, vừa cười đùa tạo sự dạn dĩ trước khi trình diễn.
Xuân Đào đứng tựa chiếc cột đình vai quàng chiếc nón quai thao, Xuân Hương ngồi trên phạn, ánh mắt nhìn về phía bạn, đợi phiên mình tiếp nhịp hát. Dù mới bước vào lứa tuổi 16, hai cô đã tỏ ra điêu luyện, sẵn sàng bước vào vị trí "Liền chị" Quan họ trong làng. Hai em đã được chú ý con mắt nhà nghề Hà Nội, đài truyền hình đã mời các em lên biểu diễn. Tuy nhiên cụ Dành đã không cho phép, buộc hai cháu phải hoàn tất xong bậc trung học để bước lên đại học.
Phần trình diễn của 4 cụ hát Quan họ làng Diềm đã đến. Các cụ thảnh thơi, tươi tắn an tọa trên chiếc phản gỗ lim láng bóng. Hai cụ bà sủa soạn trầu cau, cụ Dành lo gọt vỏ trầu, cụ Hợi tiêm thêm mấy miếng trầu cánh phượng. Cụ Tình đủng đỉnh viên miếng thuốc lào bỏ vào nõ điếu, bật que diêm, châm vào thuốc lào, kéo một dài, hãm một lúc lâu cho hơi thuốc ngấm buồng phổi. Cụ ngửng mặt lên trần nhà, nhả khói từng đoạn khói một cách sảng khoái. Cụ ông Thìn ngồi cạnh, châm sẵn cốc nước trà sen tiếp bạn sau liều thuốc say xưa. Mọi như đã sửa soạn xong, các cụ nhìn nhau báo hiệu cho canh hát bắt đầu. Cụ Dành mở đầu, xướng:
Đôi tay nâng lấy cơ giầu
Trước là hầu bạn sau hàu quan viên
Em là con gái Bắc Ninh ….
Cụ Thìn đáp lễ:
Đôi tay nâng chén rượu đào
Đổ đi thì tiếc, uống vào thì say …
Nhiều người vẫn thường nghĩ đôi trai gái hát Quan họ với nhau thường là đôi tình nhân. Cụ Dành đã cải chính, cho biết tinh thần hát Quan họ không phải như người ta lầm tưởng. Họ đến với nhau vì cùng sở thích, mến mộ tài nghệ của nhau, vì yêu thích văn chương thi phú dân gian. Tình yêu có thể đến với nhau khi còn độc thân, nhưng khi đã lập gia đình, hát Quan họ trong tình bạn lúc Tết nhất, đợi mùa gặt hay chưa có công việc đồng áng sau mùa gặt. Họ thường rủ nhau lên nhà chứa hát Quan họ, quên đi những công việc đồng áng nặng nhọc. Khi đi hát Quan họ, liền anh ngồi một bên, liền chị ngồi một bên, rượu chỉ được đãi khi có dịp thật đặc biệt.
Cụ Tình tiết lộ nhiều người mê hát Quan họ có khi trốn cả vợ hay chồng, chạy qua ruộng đồng sang làng bạn để hát Quan họ với nhau cho đến canh tư gà gáy, rồi ngày mai vợ chồng lại theo trâu, vác quốc ra đồng như không có gì xẩy ra trong đêm qua.
Hát Quan họ có tích cách cha truyền con nối, có dòng có giống, các cụ thường truyền dậy cho con cháu mình, có khuynh hướng dựng vợ, gả chồng cho con cháu mình với các nghệ nhân cùng ngành, mối xích Quan họ chòm xóm ngày thêm xiết chặt.
Đến quá Ngọ, con tì con vị quấy rầy đoàn chúng tôi, các cụ vẫn con muốn hát. Hình như có chúng tôi, các cụ có cớ để ôn lại các bài hát nằm lòng, để nhìn lại quãng đời hoa mộng xa xưa. Cụ Dành nhấm miếng trầu cánh phượng, đôi mắt xa xưa nhìn vào dĩ vãng, tuần tự hát:
Năm canh, sáu khắc người ơi!
Người cười nửa miệng, em vui nửa lòng….
Người về để nhệân giăng mùng
Năm canh luống những lạnh lùng cả năm …..
Ngồi (rằng là) ngồi tựa (ối a) song đào
Ngồi tựa (ối a) song đào
Hỏi người (là người) tri kỷ ra vào có thấy vấn vướng
Gió (rằng là) gió lạnh (ối a) đêm trường
Nửa chăn (là chăn), nửa chiếu (ối a), nửa gường (là) nửa gường để đấy đợi ai ……
Gần 90 tuổi, cụ Dành vẫn còn thuộc hơn 200 bài Quan họ, hàng năm bọn cụ vẫn còn lên tỉnh Bắc Ninh thi hát với các làng bạn.
Anh K. cho biết cụ Hợi góa bụa khi tuổi còn xanh, chồng mất tích trong cuộc chiến Mậu Thân 1968. Gần 4 thập niên qua, cụ vẫn ở giá thờ chồng, vui bầy đàn con đã nhớn khôn, thỉnh thoảng đàn đúm với bọn Quan họ trong làng, hai bé Xuân Đào và Xuân Hương cũng là cháu cụ.
Gợi đến cảm nghĩ mất mát người chồng thân yêu của cụ đã gặp nhau trong khi đi hát Quan họ. Cụ Hợi trả lời "Chúng tôi là phận dân đen, nhà nước bảo phục vụ đất nước là ông nhà tôi nghe theo. Gần 40 năm qua, tôi an phận, sống trong cảnh côi cút, tần tảo buôn bán, chỉ chăm sóc ruộng nương do ông cha để lại, lo cho đàn con dại. Trời bắt vậy, đành chụi, tôi không nghĩ gì về chuyện Nam Bắc phân tranh ….. Được các bác đến thăm quí hóa lắm rồi".
Cụ mời chúng tôi lại nhà dùng bữa con trưa. Thật đúng ý lúc cơn đói cồn cào. Đến nhà, mân cơm đã sắp sẵn trên chiếc chiếu cói có in hình bát vạn đặt trên nền gạch Bát tràng đỏ.
"Hôm nay các bác đến nhà, chẳng có gì, chúng tôi đã bảo các cháu ra sau vườn ngắt ít cọng rau làm gỏi, bắt con gà sống thiến, cổ cánh nấu bí, lòng xào miến, gà luộc lá chanh chấm muối tiêu" Cụ Dành mời chúng tôi dùng bữa.
Khó có thể từ chối sự hiếu khách của nghệ nhân làng Diềm, cưỡng lại con đói bụng. Sau bữa ăn, chúng tôi áy náy, muốn bồi hoàn lại cho các cụ ca diễn Quan họ và bữa cơm trưa thịnh soạn. Các cụ một mực từ chối sự bồi hoàn.
Đoàn cám ơn các cụ về sự tiếp đãi nồng hậu. Tôi vội tiếp lời "Hôm nay được các cụ tiếp đãi là nhờ vào tài lộc của anh K.". Mọi người cùng cười. Cụ Dành đăm đăm nhìn chúng tôi và bất chợt cất tiếng hátbài ca tạm biệt:
Người về ta chẳng cho về,
Ta nắm lấy áo, ta đề câu thơ …..

Người ơi (ối a) người đừng về
Tạm biệt từ đây (ối a) từ đây
Chia rẽ đôi nơi (ối a) đôi nơi
Kẻ Nam (ối a) người Bắc (ối a)
Có về (ối a) có về vẫn còn (ối a) nhớ nhau. …..
Anh K. ghé vào tai tôi nói "Các anh thật may nắm được nhìn các cụ say sưa hát Quan họ, chưa chắc năm sau các cụ còn sống để hát cho chúng mình nghe".
- Góp ý hay muốn trở thành người mẫu nhiếp ảnh, thư về [email protected]

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Viện Kiểm Soát Nhân Dân Tối Cao tại Việt Nam đã đề nghị ngưng thi hành án lệnh hành quyết với tử từ Hồ Duy Hải để điều tra lại vụ án này, theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do cho biết hôm 2 tháng 12.
Tuần báo OC Weekly đã viết twitter cho biết đóng cửa sau khi chủ nhân là công ty Duncan McIntosh Company đóng cửa tuần báo giấy một ngày trước Lễ Tạ Ơn.
Cha mất rồi. Em buồn lắm, vì không về thọ tang Cha được. Em đang xin thẻ xanh. Sắp được phỏng vấn. Vợ chồng em định năm sau, khi em đã thành thường trú nhân, sẽ về thăm Cha Mẹ. Ngày tạm biệt Cha lên đường đi Mỹ du học bốn năm trước, đã thành vĩnh biệt.
Tôi khẳng định những việc tôi làm là đúng đắn và cần thiết để kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn. Những gì tôi làm không liên can đến vợ con và gia đình tôi. Vì thế, tôi yêu cầu công an Hồ Chí Minh chấm dứt ngay việc sách nhiễu, khủng bố gia đình tôi.
Brilliant Nguyễn là một thanh niên theo trường phái cấp tiến và chủ thuyết Vô Thần (*). Chàng ta không tin ma quỷ đã đành mà cũng chẳng tin rằng có thần linh, thượng đế. Để giảm bớt căng thẳng của cuộc sống, theo lời khuyên của các nhà tâm lý và bạn bè, chàng ta đến Thiền Đường Vipassana ở Thành Phố Berkeley, California để thực hành “buông bỏ” trong đó có rất nhiều cô và các bà Mỹ trắng, nhưng không một ý thức về Phật Giáo
Có những câu chuyện ngày xửa ngày xưa mà chẳng xưa chút nào. Có những chuyện hôm nay mà sao nó xa xưa vời vợi. Chuyện ngày xưa... Có một ngôi chùa ở vùng quê thanh bình, trước mặt là đồng lúarì rào, cánh cò chao trắng đồng xanh. Trong chuà có vị hoà thượng già hiền như ông Phật, lông mày dài bạc trắng rớt che cả mắt...
Ông Gavin Newsom, Thống đốc tiểu bang California, đã tuyên bố ân xá cho hai người đàn ông từng dính vào hai vụ hình sự khác nhau khi họ mới 19 tuổi và đang mong muốn không bị trục xuất về Việt Nam.
Hoang Nguyen, 43 tuổi, bị bắt và bị truy tố về tội trộm sau khi bị cho là đổi nhãn giá trên hơn ba mươi chai rượu vang tuần trước, theo hồ sơ tòa.
Bé ngọc ngà của Mẹ cố thở chút không khí ít oi còn trong buồng phổi. Giây phút cuối. Để ngàn sau dân Hong Kong sống xứng đáng Con Người.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.