Hôm nay,  

Luống Cải Chân Đồi

11/05/200500:00:00(Xem: 5985)
Thời Phật còn tại thế, trong một mùa an cư, Đức Phật và tăng đoàn có mặt tại thị trấn Vejanra khi nơi này đang bị mất mùa và dân chúng khắp vùng lâm nạn đói trầm trọng. Kho lúa dự trữ của thị trấn cũng được lệnh mở ra phân phát nhưng như gió lùa vách trống, muối bỏ đại dương, đâu đâu cũng thấy những bóng người dật dờ vì đói. Chính dân chúng cũng không có thực phẩm thì lấy gì cúng dường người tu hành. Thế nên, nhiều vị sa môn từng ôm bát về không sau giờ khất thực. Ngay Đức Phật cũng nhiều lần về lại khu rừng trú ngụ mà không có một hạt cơm trong bát! Nhưng Đức Phật vẫn an nhiên thiền định và sau khi xả thiền, vẫn nói pháp. Cái đói là một thực thể nhưng cái thực thể đó như không làm vẩn đục sự nhiệm mầu. Tất nhiên, tình trạng này không thể kéo dài. Đại Đức Moggallana đã trình Đức Phật, xin Người cùng tăng đoàn hãy di chuyển về miền Nam, nơi không gặp nạn đói. Đức Phật đã ôn tồn bảo Đại Đức Moggallana rằng: “Không được đâu, chúng ta đã đến đây khi dân chúng gặp đói khổ, chúng ta phải ở lại để chia xẻ, để an ủi và để hướng dẫn tâm linh họ trước ách nạn này. Trách nhiệm chúng ta phải lớn hơn ở những nơi cùng khổ” Đại Đức đã quỳ xuống sám hối trước lời từ bi của Đức Phật nhưng lòng rất khổ đau khi thấy Thế Tôn ngày một tiều tụy nên một lần lại thưa rằng: ‘Bạch Thế Tôn, con thấy trong rừng có một khỏang đất cây cỏ mọc rất xanh tươi, như vậy, đất dưới đó phải có chất dinh dưỡng tốt. Xin Thế Tôn cho phép con đào lên, lấy phần đất mềm ở dưới, hòa tan vào nước cũng có chút bổ dưỡng cho cơ thể”. Đức Phật lại nhu hòa mà nói rằng: “Không đâu, nếu cây cỏ nơi đó xanh tươi là nhờ đất tốt, ta đào lên, cây sẽ chết, đó là chưa kể còn biết bao côn trùng đang ẩn thân dưới phần đất mềm đó. Đại Đức an tâm, dân chúng đói, chúng ta cùng đói; dân chúng còn đó, chúng ta sẽ còn đây”.
Sự thanh thản an nhiên của Đức Phật là sức mạnh vô song giúp tăng đoàn giữ chánh niệm. Và sự nhiệm mầu đã xảy ra khi mọi người thấy Đại Đức Ananda, sau khi khất thực về đã lui cui nhặt củi khô nhóm lửa, đặt một đĩa sắt nhỏ lên và lấy trong túi ra gói giấy đựng dúm bột mầu vàng. Đại Đức nói với huynh đệ đang chăm chú vây quanh rằng: “đây là cám, cám nuôi ngựa, chúng ta rang cho thơm rồi dâng lên Thế Tôn dùng đỡ lòng. Hôm nay, khi khất thực, tôi gặp người lái buôn ngựa vừa di chuyển qua đây. Ông ta từng được nghe Thế Tôn thuyết pháp nên phát tâm cúng dường, nói với tôi rằng, khi sa môn nào không xin được thực phẩm thì ghé qua trại ngựa, nhận một phần cám; và chỉ khi nào không xin được gì hãy ghé nhận cám vì cám này cũng là xẻ bớt từ phần ăn của 500 con ngựa. Với khả năng hạn hẹp, ông ta chỉ có thể cúng dường như thế mà thôi. Ông ta vốc cho tôi một nắm, tôi xin một phần nữa để dâng Thế Tôn và đang rang đây”.
Cám nuôi ngựa của người lái buôn đã đến kịp thời trước khi những cơn mưa kỳ diệu đổ xuống hồi sinh sự sống của cây trái, mùa màng…..

Sự nghèo đói nơi nào cũng có, thiên tai lúc nào cũng bất ngờ xảy ra nhưng ở mỗi nơi và lòng mỗi người, thái độ chấp nhận nghèo đói và thiên tai khác nhau. Cùng trong ngục tối, chịu chung sự hà khắc giam cầm, vậy mà, người thì bình thản, kẻ lại loạn cuồng. Sự khác nhau do từ nội lực, từ trí tuệ quán chiều lẽ vô thường. Đối với bậc tu hành chân chính các ngài dễ dàng khắc phục khó khăn vì khi đối cảnh chẳng sanh tâm thì tâm sẽ lặng. Ấy thế mà giữa thời vô minh cai trị, chúng ta thấy thấp thoáng những lời thơ thống hận, những giòng lệ khôn ngăn từ bậc cao tăng. Gặp những chia xẻ này, người Phật tử chớ hấp tấp nhận định vì Bát Nhã phải được đón nhận bằng trí tuệ mới liễu ngộ được uyên nguyên. Chữ nghĩa chỉ là phương tiện từ chương mà thôi. Bằng phương tiện đó, các ngài đã dũng cảm nói thay cho những người không còn được nói, khóc thay cho những người không còn được khóc, nên lời ta thán đó chính là lời từ bi an ủi, nước mắt đó chính là cam lộ Quán Âm.
Vác cuốc xuống chân đồi
Nắng mai hồng đôi môi
Nghiêng vai hờn tuổi trẻ
Máu đỏ rợn bên trời
Sức yếu, lòng đất cứng
Sinh nhai tủi nhục nhiều
Thân gầy, tay cuốc nặng
Mắt lệ nóng tình yêu.
Không người Việt Nam nào đọc mấy câu thơ này mà không biết đây là hình ảnh những vùng được kẻ vô minh gọi là “kinh tế mới”. Sự mỉa mai đáng thương hại ở ngay nơi tên gọi “huy hoàng” đó vì bất cứ ai được hân hạnh gửi tới những “thiên đường” này đều không tìm thấy, nhìn thấy cái gì là “kinh tế” cả! Khi Vạn Lý Trường Thành được xây xong, mấy ai không biết rằng bức tường xuyên mây vượt núi hoàn thành không chỉ bằng gạch đá mà còn bằng vô số mạng người! Nhưng mạng người trong tay bạo chúa có hơn gì ruồi kiến! Bức tường còn đến ngày nay, được coi là kỳ quan thế giới, người đến thăm có rợn bước chân đi" có nghe bao oan hồn thoảng trong gió núi" Có cảm được gạch đá rưng rưng hờn uất khôn tan"
Cũng những nơi gọi là vùng kinh tế mới này, kẻ nắm quyền lùa dân vô tội, phán lời rằng “sỏi đá phải thành cơm!”
Thầy tóc trắng bơ vơ
Con mắt xanh đợi chờ
Đèn khuya cùng lẻ bóng
Khúc ruột rối đường tơ
Tuổi Thầy trông cánh hạc
Cánh hạc vẫn chốc mồng
Mắt con mờ ráng đỏ
Ráng đỏ lệ lưng tròng
Hỡi những ai tranh đấu cho Tự Do, Nhân Quyền,
Hỡi những nhà thống kê đại tài trên thế giới,
Có vị nào đếm nổi số oan hồn đã thành sỏi đá trên những vùng “sỏi đá phải thành cơm” không"
Lành thay, sứ giả Như Lai đã chưa từng vắng mặt với điêu linh, nên bằng pháp âm vi diệu mà:
Chân đồi xanh luống cải
Đời ta xanh viễn phương
Sống, chết, một câu hỏi
Sinh nhai lỡ độ đường.
Mưa pháp đã rạt rào trên oan khổ để chúng sinh trở về chánh niệm, biết được chỉ là “lỡ độ đường” thôi, là thoáng chốc, là một sát na thôi, làm sao hoen ố được mầu xanh viễn phương của chân như bản thể"
Nếu biết tác giả bài thơ này là ai, chắc quý Phật tử muôn phương sẽ thành tâm hướng về trời Nam mà đảnh lễ. Vâng, người đang nói lời thống hận thay cho hơn 80 triệu đồng bào là Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ, vị sứ giả Như Lai đang theo bước chân Phật khi xưa là ở lại với nơi cùng khổ để “chúng sanh đói, ta cùng đói; chúng sanh còn, ta sẽ còn”.
Diệu Trân
Tháng 5, 2005
Mùa Phật Đản lần thứ 2629

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.