Hôm nay,  

Luật Pháp Phổ Thông

09/08/200400:00:00(Xem: 5893)
Hỏi (Bà Trần T.H.A.): Tôi cùng chồng tôi vượt biên cách đây gần 20 năm. Khi đến quốc gia tạm dung chúng tôi có khai là vợ chồng, nhưng sau một thời gian chờ đợi hơn 2 năm chúng tôi đã bất đồng về việc chọn quốc gia để định cư nên chúng tôi đã quyết định tách form vì đã ly dị. Thực ra anh ta muốn đi Mỹ, còn gia đình tôi hồi đó có người ở Úc nên tôi nhất định phải đi Úc.
Sau khi đến Úc chừng một năm thì anh ta cũng đến Úc và chúng tôi sống chung lại với nhau như vợ chồng. Hiện chúng tôi vẫn chưa có con với nhau.
Sau năm 1975, chúng tôi kết hôn và có làm hôn thú nhưng khi vượt biên thì chúng tôi chẳng để ý đến những loại giấy tờ đó nên chẳng mang theo.
Cách đây hơn hai năm, chồng tôi đã trở lại Việt Nam lần đầu tiên để thăm gia đình và năm ngoái anh ta đã về Việt Nam thêm 2 lần nữa. Tôi có hỏi lý do thì anh ta không trả lời và cho rằng đó là chuyện riêng của anh ta.
Gần đây tôi được biết là anh ta đã kết hôn tại Việt Nam và hiện đang bảo lãnh để cho người vợ mới cưới này qua Úc.
Xin LS cho biết là tôi có thể ngăn chận việc bảo lãnh này dựa vào lý do là chúng tôi chưa hề ly dị hay không"

*

Trả lời: Trong thư bà đã cho biết là khi đến quốc gia tạm dung bà đã khai là vợ chồng nhưng sau đó bà đã tách form vì đã ly dị.
Lý do "vì đã ly dị" mà bà đã nêu lên trong thư khá mơ hồ, vì chúng tôi hoàn toàn không biết là bà muốn nói là bà đã ly dị tại quốc gia tạm dung, hay là bà đã ly dị tại Việt Nam trước khi bà vượt biên.
Nếu bà ly dị tại quốc gia tạm dung thì hiệu lực pháp lý của sự ly dị đó tùy thuộc vào luật pháp của quốc gia mà bà đã xin ly dị. Điều này khá phức tạp vì luật ly dị của các quốc gia được thiết định dựa trên phong tục tập quán, tình trạng xã hội, chế độ chính trị và một vài quốc gia khác trên thế giới dựa trên nghi thức được thừa nhận bởi tôn giáo.
Trong vụ Schwebel v. Ungar (1964) 42 DLR (2d) 622. Trong vụ đó, hai vợ chồng đã kết hôn một cách hợp lệ tại Hungary nơi họ cư ngụ. Hai vợ chồng đã vượt thoát khỏi Hungary với ý định đến định cư vĩnh viễn tại Israel. Trên đường vượt thoát, khi dừng chân tại Ý, họ đã ly dị tại Ý theo thủ tục của Do Thái Giáo gọi là "get, gett, hoặc ghet."
Thủ tục ly dị theo phương cách này được chấp nhận bởi Do Thái Giáo và được xem như là một thủ tục ly dị hợp pháp tại Do Thái, tuy nhiên thủ tục ly dị này không được thừa nhận bởi luật pháp của Hungary hoặc luật pháp của Ý. [Ghi chú: get, gett, ghet (thủ tục ly dị theo Do Thái Giáo): Theo luật lệ của Do Thái [Hebrew], thuật từ được dùng để chỉ sự ly dị theo Do Thái Giáo, chỉ có thể được thực hiện bởi người chồng trao chứng thư ly dị cho người vợ với sự hiện diện của hai nhân chứng, dù hai bên đương sự có đồng ý với sự ly dị hay không. (Under Hebraic law, the term used to denote a Jewish religious divorce, executable only by the husband handing a bill of divorce to the wife in the presence of two witnesses, whether both parties agree to the divorce or not).]
Sau khi ly dị, hai vợ chồng đã tự ý đến định cư một cách riêng rẻ tại Do Thái. Sau khi định cư tại Do Thái, người vợ, Ungar, đã đến thăm viếng Ontario, Gia Nã Đại, và đã kết hôn với Schwebel. Tuy nhiên, Schwebel sau đó đã nộp đơn thỉnh cầu tòa tuyên bố sự kết hôn là bất hợp pháp với lý do là Ungar đã kết hôn và chồng của bà ta hiện đang cư ngụ tại Do Thái. Mặc dầu bà ta đã ly dị nhưng sự ly dị đó không được chấp nhận bởi luật lệ tại Ontario. Tuy thế, tòa đã đưa ra phán quyết rằng sự kết hôn tại Ontario là hợp pháp và tòa đã bác đơn xin của Schwebel.


Theo luật pháp quốc tế, thì khả năng kết hôn của một người bị chi phối bởi luật lệ của quốc gia nơi đương sự cư trú cùng luật lệ của quốc gia nơi mà sự kết hôn xảy ra, chứ không tùy thuộc vào sự hợp lệ hoặc bất hợp lệ của thủ tục ly dị trước đây.
Khi Ungar kết hôn bà ta là thường trú nhân của Do Thái, Do Thái là trú sở của bà ta. Luật lệ của Do Thái đã chấp nhận việc ly dị trước đây của bà ta là hợp pháp và bà được xem là độc thân, vì thế việc kết hôn của bà tại Ontorio là hợp pháp, mặc dầu thủ tục ly dị theo Do Thái Giáo mà bà đã tiến hành trước đây đã không được chấp nhận bởi luật pháp của Hungary cũng như của Ý Đại Lợi.
Theo luật pháp quốc tế thì có hai vấn đề cần phải được đặt ra ở đây:
Vấn đề thứ nhất là liệu Ungar có quyền kết hôn với Schwebel tại Ontario hay không" Đây là vấn đề cốt lõi đối với sự hiệu lực pháp lý của việc kết hôn này, và điều này đã được quyết định theo luật pháp của trú sở khi việc kết hôn xảy ra. Đó là luật pháp của Do Thái, vì bà Ungar là thường trú nhân của Do Thái khi bà kết hôn tại Ontario. Luật pháp của Do Thái đã công nhận là bà Ungar có quyền kết hôn vì hiện bà đang độc thân và việc ly dị trước đây của bà tại Ý là hoàn toàn hợp pháp.
Mặt khác tòa nên giải quyết vấn đề "ly dị theo Do Thái Giáo" [get, gett, ghet] và vấn đề kết hôn lần thứ hai tại Ontario một cách độc lập đối với nhau.
Theo án lệ, vấn đề ly dị được quyết định theo luật pháp của lãnh thổ hoặc của quốc gia nơi mà các bên đương sự trú ngụ vào lúc tiến hành thủ tục ly dị. Điều này có nghĩa là luật pháp của Hungary hoặc của Ý Đại Lợi. Tuy nhiên, luật pháp của 2 quốc gia này không chấp nhận thủ tục ly dị theo Do Thái Giáo. Vì thế, bà Ungar được xem như là chưa ly dị và vì thế bà ta không thể kết hôn lần thứ hai tại Ontario được. Nếu bà đã kết hôn thì sự kết hôn của bà tại Ontario là bất hợp pháp.
Tuy nhiên, nếu tòa thừa nhận rằng việc kết hôn của bà Ungar tại Ontario tùy thuộc vào luật pháp của Do Thái nơi mà bà Ungar hiện là một thường trú nhân. [Phương thức này đã được áp dụng bởi tòa án Ontario vì tòa đã công nhận rằng bà Ungar độc thân khi bà kết hôn tại Ontario.] Vì thế, việc kết hôn của bà Ungar tại Ontario là hoàn toàn hợp pháp.
Đọc đến đây một số độc giả có thể cho rằng có sự mâu thuẫn trong việc áp dụng luật pháp quốc tế, vì độc giả có thể tranh luận rằng sự ly dị của bà Ungar hoàn toàn không có hiệu lực pháp lý vì Hungary và Ý hoàn toàn không thừa nhận thủ tục ly dị theo Do Thái Giáo. Vì thế, sự kết hôn của bà Ungar tại Ontario là hoàn toàn bất hợp pháp.
Tuy nhiên, ngày nay luật pháp và án lệ quốc tế đã thừa nhận để giải quyết vấn đề này bằng cách xét xem là vào lúc kết hôn tình trạng của các bên đương sự có hợp lệ để kết hôn theo sự quy định pháp lý của quốc gia mà đương sự đang cư ngụ hay không"
Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn bà có thể thấy được rằng việc chồng bà trở lại Việt Nam kết hôn và hiện đang nộp đơn bảo lãnh cho người vợ mới cưới của ông ta sang Úc là một việc làm không trái với sự quy định của luật pháp.
Tuy nhiên, mọi vấn đề pháp lý hoặc bất cứ đơn từ nào do bà đệ nộp cho chính quyền nhằm khiếu nại về hành động đó của chồng bà đều làm trì hoãn và ảnh hưởng đến việc bảo lãnh của chồng bà.
Trước khi khiếu nại bà nên suy nghĩ là bà có cần phải làm điều đó hay không" Nếu còn thắc mắc xin gọi điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp. Chúc bà may mắn.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đúng 8:45am sáng ngày Thứ Bẩy, 26 tháng 10 năm 2019, tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt-Mỹ (Sid Goldstein Freedom Park), thành phố Westminster, Nam California, Hoa Kỳ, đã diễn ra trọng thể Lễ Tưởng Niệm (Memorial Ceremony) cho 81 Chiến sĩ Nhẩy Dù thuộc Đại Đội 72, Tiểu Đoàn 7 Dù/QLVNCH, đã thiệt mạng trong một tai nạn máy bay C-123 tại miền Nam VN ngày 11 tháng 12 năm 1965.
Đau thương nhất là niềm hy vọng của những người Việt còn chờ đợi cảm thấy ánh sáng mờ dần từ phía chân trời. Nhưng điều đau thương hơn cả là anh em đang sống trong búa rìu dư luận. Chúng tôi cảm thấy dư luận bất công sẵn sàng quay lưng lại với nhóm trẻ cô đơn đang tìm đường gai góc mà đi cứu người ở hải ngoại.
Sau khi chào đón anh chị em Nghĩa Sinh Phước Tuy, Phan Thiết và Sài Gòn đến công tác từ thiện tại Tỉnh Cà Mau ngày 12/10/2019, Linh mục Đaminh Lê Văn Hội - Quản xứ Trung Hòa (tỉnh Cà Mau), đã mời anh chị em Nghĩa Sinh Công Giáo tham dự thánh lễ tạ ơn do Cha chủ sự.
Tôi bước lên sân khấu trong niềm vinh dự là một sinh viên Việt Nam tốt nghiệp loại giỏi tại Đại học Đức, trẻ và rất trẻ, mười chín tuổi. Và đang học Master năm thứ nhất Khoa Piano trình diễn tại Đại học Âm nhạc hiện đại nhất của nước Đức. Đó là Đại học Nuremberg, Bang Bavaria.
Người rơm còn có một tên gọi khác, dễ nghe hơn, theo ngoại ngữ: nouveaux boat people – những thuyền nhân mới. Khác với lớp người tị nạn từ Việt Nam vào cuối thế kỷ trước, những kẻ đến sau không còn được thế giới chào đón nữa.
Cảnh sát hiện đang tập trung vào những người di cư từ Việt Nam khi điều tra cái chết của 39 người trong một "thùng chứa (container)". Sự chỉ dẫn đến từ người thân.
Halloween có một nguồn gốc từ một lễ hội cổ xưa 2000 năm trước ở Ireland có tên Samhain. Từ Samhain có nghĩa là "Mùa hè cuối cùng" trong tiếng Gaelic, một ngôn ngữ được sử dụng ở Ireland và Scotland. Nó cũng báo hiệu mùa đông bắt đầu để nhà nông chuẩn bị cho những tháng lạnh hơn
Kinh tế chánh trị là môi với răng. Dân chúng Hong Kong đang làm một cuộc chiến tranh nhân dân, vừa du kích vừa trận địa chiến ở thành phố. Vừa chống nhà cầm quyền tay sai của TC vừa chống bọn ăn theo CS và tay sai ơ Hong Kong.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.