Hôm nay,  

Chứng Nhân Lịch Sử

23/10/200300:00:00(Xem: 5461)
Trong những ngày qua, ba cuộc lễ long trọng đã diễn ra tại Tòa Thánh Vatican, có hàng trăm ngàn tín đồ Công giáo từ khắp nơi về tham dự. Thứ nhất là buổi lễ kỷ niệm 25 năm Đức Giáo hoàng John Paul II trị vì trên ngôi cao nhất của Gia-tô giáo La Mã, diễn ra vào thứ năm tuần trước. Kế đó là buổi lễ ngày Chủ nhật Đức Thánh Cha sắc phong Mẹ Teresa là Chân Phước, một thủ tục trong giáo hội chuẩn bị đưa Mẹ Terasa lên hàng Thánh. Và thứ ba tuần này, lễ sắc phong 30 vị Hồng Y mới được Giáo Hoàng bổ nhiệm. Như vậy Giáo Hội đã có 194 vị Hồng Y và theo luật Giáo Hội, chỉ những vị dưới 80 tuổi mới được tham dự Đại hội Hồng Y có nhiệm vụ bầu một Giáo hoàng, bởi thế số Hồng Y được dự Đại hội này chỉ có 135 vị. Nhìn hình ảnh Đức Giáo Hoàng John Paul II, 83 tuổi sức khỏe sa sút vì bệnh nặng, lòng tôi thấy ngậm ngùi. Tôi nghĩ Ngài sẽ không còn ở trần thế bao lâu nữa.
Tháng 10 năm 1978, Hồng Y Karol Wojtyla ở Krakow, Ba Lan, được bầu làm Giáo Hoàng trước sự ngạc nhiên của mọi người, vì đây là người gốc Ba Lan đầu tiên và cũng là vị Giáo Hoàng đầu tiên không phải là người Ý kể từ 455 năm qua được lên ngôi báu. Ngài thay thế Giáo Hoàng John Paul I từ trần sau có 34 ngày trị vì, và lấy hiệu là John Paul II. Trong 25 năm qua, Ngài đã đi thăm đến 125 nước trên thế giới và là vị Giáo Hoàng đã công du nhiều nhất từ trước đến nay. Năm 1981, Ngài bị một kẻ khủng bố Thổ Nhĩ Kỳ bắn trọng thương vào bụng. Kể từ lúc đó sức khỏe của Ngài đã bị ảnh hưởng. Những năm gần đây Ngài đã lâm trọng bệnh, nhưng bất chấp tất cả, Ngài vẫn lên đường vân du để rao giảng và khích lệ những tín đồ giữ vững đức tin trong những hoàn cảnh gian truân nhất. Tôi nghĩ Ngài là một chứng nhân của lịch sử, một nhân vật vĩ đại của Thế giới.
Tôi không phải là người Công giáo, nhưng lòng riêng vẫn ái mộ Ngài. Cuối năm 1999, nhân dịp tạp chí Time chọn Người của Thế Kỷ, tôi đã viết bài đề nghị Ngài. Nhưng sau đó báo Time chọn Albert Einstein. Tôi là người theo khoa học từ thuở thiếu thời, với sự lựa chọn này tôi không có gì dị nghị. Nhà bác học Einstein cũng xứng đáng, vì thuyết Tương đối của ông đã tạo ra một hướng suy tư mới của con người nhìn vào vũ trụ với sự "liên hợp không-thời gian". Nhưng ý kiến của tôi về Giáo hoàng John Paul II vẫn không thay đổi, vì tôi muốn nhìn một thế giới bao trùm cả lãnh vực khoa học, thế giới của sự sống giữa con người và con người trên hành tinh nhỏ bé này. Một phần tư thế kỷ qua, Giáo hoàng là chứng nhân và cũng đã âm thầm đóng góp một phần không nhỏ vào cuộc chiến chống Cộng sản. Ngày nay hai mầm mống xung đột muôn thuở đã trở lại với thế giới, nhưng gay gắt hơn trước rất nhiều. Những vấn đề chủng tộc và tôn giáo thời nào cũng có nhưng khi đem niềm tin tôn giáo pha trộn vào sự sống còn của chủng tộc, những kẻ quá khích đã tạo ra một con đường nguy hiểm không lối thoát. Giáo hoàng John Paul II chủ trương cải thiện quan hệ giữa Do-thái giáo, Hồi giáo và Gia-tô giáo, ba tôn giáo lớn đã từng có những vụ đụng độ đẫm máu trong nhiều thế kỷ qua. Ngài không phải chỉ nói mà đã hành động cụ thể. John Paul II đã làm một việc vô tiền khoáng hậu là đến thăm một giáo đường Do-thái và một đền thờ Hồi giáo. Hồi tháng 3 năm 2000, Ngài đã đến hành hương tại gốc gác của ba tôn giáo ở Palestine. Trước khi qua Trung Đông, Ngài đã cử hành một buổi lễ long trọng tại Vatican, công nhận những lỗi lầm trong quá khứ của Giáo hội Công giáo La Mã đối với hai tôn giáo khác cùng chung một gốc. Đức Giáo hoàng đã dạy chúng ta một bài học quan trọng: Nếu anh muốn có hòa bình và ổn định, nếu anh muốn có hòa hợp hòa giải hay một cái gì tương tự, thì chính anh phải biết sám hối, biết nhìn nhận những lỗi lầm sai trái của anh trước hết, trước khi tố cáo những tội lỗi của người khác.

Tôi nghĩ John Paul II không phải chỉ là một nhà lãnh đạo tâm linh đạo cao đức trọng, Ngài còn là một chiến lược gia kỳ tài. Ngày nay không ai có thể phủ nhận vai trò của Ngài trong việc đánh sụp khối Cộng sản gồm Liên Sô và các nước Đông Âu. Chưa đầy một năm sau khi lên ngôi Giáo hoàng, năm 1979 Ngài đã trở về thăm quê hương Ba Lan do Cộng sản cai trị, giữa lúc Cộng sản đang lấn áp thế giới tự do ngay sau cuộc chiến Việt Nam. Đến khi có Phong trào Nghiệp đoàn Công nhân "Đoàn kết" nổi lên ở Ba Lan tranh đấu chống chế độ Cộng sản, chính Ngài đã cảnh cáo các lãnh tụ Cộng sản Ba Lan không được phá vỡ phong trào này. Phong trào Đoàn kết Ba Lan về sau được coi là nguyên nhân đưa đến sự sụp đổ bức tường Bá Linh năm 1989. Cuối năm đó, Tổng bí thư đảng CS Liên Sô Mikhail Gorbachev bay sang Ý xin yết kiến Giáo Hoàng.
Mặc dù là người chống Cộng, Giáo hoàng John Paul II luôn luôn chỉ trích những sự hà lạm của chủ nghĩa tư bản. Công du bất cứ nơi đâu, Ngài cũng đến thăm những người nghèo khổ. Tại nước Mỹ, có lần trước đám đông, Ngài nói: "Quý vị không thể lấy làm mãn nguyện khi bỏ lại những thức ăn thừa sau bữa tiệc. Quý vị phải lấy chính những gì thực chất của quý vị, chớ không phải chỉ lấy những dư thừa, để giúp đỡ người nghèo. Và quý vị phải đối đãi người nghèo như những người khách tại bàn ăn của gia đình quý vị". Cố nhiên Ngài chống chiến tranh và khi Mỹ sắp đánh Iraq, Ngài đã nhiều lần lên tiếng khuyên can nhưng không có kết quả. Ngài nói: "Chiến tranh chỉ được quyết định như một sự lựa chọn sau cùng và phải phù hợp với những điều kiện nghiêm ngặt". Còn về nạn khủng bố, lập trường của Ngài quá rõ. Sau vụ tấn công ngày 11-9, Ngài lên án đó là "sự khủng khiếp không thể nói ra được thành lời".
Trong thập niên 80 ở Ba Lan, Giáo hoàng vẫn khuyên Phong trào Đoàn kết tranh đấu ôn hòa, tránh đổ máu. Ngài không thể nào chấp nhận sự lật đổ một chế độ bằng cái giá xương máu mà chính người dân Ba Lan của Ngài ở trong nước phải trả.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đúng 8:45am sáng ngày Thứ Bẩy, 26 tháng 10 năm 2019, tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt-Mỹ (Sid Goldstein Freedom Park), thành phố Westminster, Nam California, Hoa Kỳ, đã diễn ra trọng thể Lễ Tưởng Niệm (Memorial Ceremony) cho 81 Chiến sĩ Nhẩy Dù thuộc Đại Đội 72, Tiểu Đoàn 7 Dù/QLVNCH, đã thiệt mạng trong một tai nạn máy bay C-123 tại miền Nam VN ngày 11 tháng 12 năm 1965.
Đau thương nhất là niềm hy vọng của những người Việt còn chờ đợi cảm thấy ánh sáng mờ dần từ phía chân trời. Nhưng điều đau thương hơn cả là anh em đang sống trong búa rìu dư luận. Chúng tôi cảm thấy dư luận bất công sẵn sàng quay lưng lại với nhóm trẻ cô đơn đang tìm đường gai góc mà đi cứu người ở hải ngoại.
Sau khi chào đón anh chị em Nghĩa Sinh Phước Tuy, Phan Thiết và Sài Gòn đến công tác từ thiện tại Tỉnh Cà Mau ngày 12/10/2019, Linh mục Đaminh Lê Văn Hội - Quản xứ Trung Hòa (tỉnh Cà Mau), đã mời anh chị em Nghĩa Sinh Công Giáo tham dự thánh lễ tạ ơn do Cha chủ sự.
Tôi bước lên sân khấu trong niềm vinh dự là một sinh viên Việt Nam tốt nghiệp loại giỏi tại Đại học Đức, trẻ và rất trẻ, mười chín tuổi. Và đang học Master năm thứ nhất Khoa Piano trình diễn tại Đại học Âm nhạc hiện đại nhất của nước Đức. Đó là Đại học Nuremberg, Bang Bavaria.
Người rơm còn có một tên gọi khác, dễ nghe hơn, theo ngoại ngữ: nouveaux boat people – những thuyền nhân mới. Khác với lớp người tị nạn từ Việt Nam vào cuối thế kỷ trước, những kẻ đến sau không còn được thế giới chào đón nữa.
Cảnh sát hiện đang tập trung vào những người di cư từ Việt Nam khi điều tra cái chết của 39 người trong một "thùng chứa (container)". Sự chỉ dẫn đến từ người thân.
Halloween có một nguồn gốc từ một lễ hội cổ xưa 2000 năm trước ở Ireland có tên Samhain. Từ Samhain có nghĩa là "Mùa hè cuối cùng" trong tiếng Gaelic, một ngôn ngữ được sử dụng ở Ireland và Scotland. Nó cũng báo hiệu mùa đông bắt đầu để nhà nông chuẩn bị cho những tháng lạnh hơn
Kinh tế chánh trị là môi với răng. Dân chúng Hong Kong đang làm một cuộc chiến tranh nhân dân, vừa du kích vừa trận địa chiến ở thành phố. Vừa chống nhà cầm quyền tay sai của TC vừa chống bọn ăn theo CS và tay sai ơ Hong Kong.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.