Hôm nay,  

Thời Hoàng Kim

17/12/202121:53:00(Xem: 4720)
FRIENDS
Hình minh họa. (nguồn: https://1000logos.net

 

Hàng xóm thân thiết của tui là hai ông bạn già: Một ông Mỹ và một ông ba tàu Chợ lớn.Tụi tui sở dĩ thân tới bây giờ là ban đầu có ban hành “Luật hàng xóm” đàng hoàng chớ hổng phải cái kiểu rượu vào lời ra cuối cùng là vác chai nện nhau đâu. Bây giờ tui xin được tiết lộ bộ luật của tụi tui cho các chiến hữu tham khảo nha:

 

Ba điều không làm: 1/ Không ép uống; 2/ Không ép nghe theo quan điểm riêng của mình; 3/ Không nói mà không có bằng chứng (chính vì điều lệ này mà tụi tui kết nạp thêm bác Google vào cuộc).

 

Ba điều phải làm: 1/ Tôn trọng sở thích, xuất thân, chuyện riêng tư của bạn nhậu; 2/ Biết dừng khi nồng độ cồn và tốc độ của cái lưỡi chuẩn bị lên cao trào; 3/ Nên giới hạn nói chuyện với…vợ hàng xóm.

 

Còn nữa tụi tui dù sao cũng như là một Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ thu nhỏ chớ bộ, vậy phải sống sao cho hoà hợp để mấy xừ cảnh sát được thảnh thơi.

 

Bộ ba tụi tui nói dzậy chớ toàn dân xịn đó; Xừ John tốt nghiệp đại học kinh tế sau khi trở về từ cuộc chiến tại Việt Nam. Xừ Hinh từng là chủ hai tiệm vàng, sau 75 hú hồn còn giấu được hai hộp dưới gầm giường, chớ không thì cháo hổng  có mà húp. Tui là tệ nhứt, tốt nghiệp một khoá huấn luyện phi công ở Mỹ dzậy mà hổng hiểu sao rớt một phát ngay trại tù cải tạo mới ghê chớ. Tình bạn của tụi tui mà hổng có “Luật hàng xóm” thì chắc chắn tiêu diêu miền cực nhọc lâu rồi (nhứt là trong cái dzụ bầu cử tổng thống Mỹ vừa rồi). Túm lại là tự do ngôn luận thì có nhưng xúc phạm nhân quyền thì không được. Chẳng hạn như tụi tui tha hồ chửi Tập Hí hay Trọng lú hoặc Bảy đần nhưng không được phép nói tụi Tàu ác, dân Việt ma giáo hay bọn Mỹ ngu.Tụi tui có quyền tự hào dân tộc mình nhưng không được phép chà đạp dân tộc hàng xóm.

 

Thường thường tụi tui họp “Hội nghị thượng đỉnh” hai, ba tuần gì đó một lần, nhưng dạo này vì COVID-19 tấn công dữ dội nên ai về nhà nấy cố thủ thà chết không chịu hy sinh… đi họp. Sau bao nhiêu tháng xa cách, mấy ông bạn già  và cả tui cũng tụ lại vì ai cũng được chích choác đầy đủ nên yên tâm mở miệng mà không cần đứng xa sáu feet. Công nhận tuổi hoàng hôn mà còn có bạn tri kỷ thì coi như bình minh cuộc đời vẫn còn tươi đẹp lắm. Trong buổi trà dư tửu hậu, tụi tui đề cập đến chuyện những thời hoàng kim của các đế quốc xa xưa. Trong lúc cao hứng tui hùng hồn hỏi:

 

– Hai ông có biết thời hoàng kim của nước Việt nam là vào lúc nào hông?

 

Đến đây tui cũng xin giải thích thêm là tụi tui toàn dùng tiếng Việt trong các buổi họp mặt vì xừ Hinh sinh ra ở Chợ Lớn, bà già gốc Sài Gòn khu Bảy Hiền, đậu Tú tài hạng bình hẳn hoi, xừ John lấy dzợ Việt, người Cần Thơ, từ năm một ngàn chín trăm hồi đó, xừ ăn mắm nhiều quá nên thích nghiên cứu nghệ thuật ăn uống Việt nam rồi từ từ nghiên cứu tùm lum tà la, kết quả là nói chuyện với xừ John tôi phải rất cẩn thận đừng có mà để xừ lôi Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ra mà dí vào mặt thì tiêu đời.

 

Xừ John hắng giọng ra vẻ quan trọng nói:

– Theo sự tìm hiểu của tui (viết nguyên văn vì vợ xừ người miền Tây mà), đó là triều đại nhà Lý,Trần.

 

Xừ Hinh rụt rè bày tỏ ý kiến:

 

– Còn tui thấy vào thời Viêt Nam Cộng Hoà vì hồi đó Việt Nam đâu có thua gì Đại Hàn. Hồi đó nhà tui còn được ăn súp vi cá thay cơm!

 

Tui cười:

 

– Mấy cha sai hết trơn rồi, đó là thời kỳ sau 1975, lúc lũ bố khỉ mẹ khỉ và đàn lũ khỉ vào giải phóng... rồng vàng.

 

– Ủa sao kỳ dzậy? Hai ông hàng xóm cùng trợn mắt la lên làm như tui đang khủng bố mấy chả không bằng.

 

Tui từ từ rót cho mình một ly đế hiệu Ông Già sản xuất tại... Mỹ, tợp chút xíu thưởng thức hương vị, nheo mắt ngắm nghía sự thắc mắc lẫn bất bình của hai ông hàng xóm.Vì đã ký kết vào luật nên hổng ai dám hối tui nói khi tui chưa muốn nhưng cuối cùng tui cũng lên tiếng. Câu đầu tiên tui hỏi có quốc gia nào gọi là hùng cường mà giáo sư đi... chăn bò, nuôi heo không? Hai ông lắc đầu lia lịa. Tui hỏi tiếp rằng có đế quốc nào “giàu” đến nỗi mướn hẳn một ông đại tá đạp xích lô chở mình đi phố không? Còn nũa có đất nước nào giàu mạnh trên thế giới này mà người đạp xích lô, vá lốp xe đạp, thợ sửa ống cống biết đọc sách Triết, tốt nghiệp đại học không? Còn nữa nha! Tui quay qua xừ John người thông kim bác cổ nhất trong nhóm hỏi tiếp rằng ông đọc khá nhiều sách, vậy thì tìm giùm tui có quốc gia nào “thái bình” đến nỗi nhà giam không hề có bọn đầu  trộm đuôi cướp, phạm pháp mà lại toàn các vị có học hành có kiến thức và có nhân cách vào trong đó ngồi không? Hai ông bạn tri kỷ đã đoán ra được phần nào thâm ý của tui nên xừ Hinh gật gù cười tiếp:

 

– Ừa đúng gồi! Hổng có đất nước nào giàu như Việt Nam hồi đó đi tàu ra biển... du lịch mà mang cả đống vàng với hột xoàn.

 

Xừ John ngẫm nghĩ một lát rồi cũng hồ hởi tham gia theo kiểu...Mỹ:

 

– Tui phục nhứt là sau năm 75, toàn đầy tớ nhân dân và... đàn heo được sống chung trong những biệt thự cao cấp. “Chiện” đó thiệt chưa có một quốc gia giàu mạnh nào trên thế giới này làm nổi.Còn nữa, dân ăn hàng quán toàn được các mệnh phụ phu nhân, giáo sư, dược sĩ phục vụ tận tình.

 

Tui chợt ngậm ngùi nhớ lại hồi mới ra tù theo thằng bạn cùng đơn vị đi học nghề sửa xe đạp. Đối diện “tiệm” sửa xe của tui là “nhà hàng” bán bún riêu của một bà thiếu tá chế độ cũ. Đúng như lão John nói, tuy ngồi bán bún riêu trong góc hẻm, cung cách quý phái, lời ăn tiếng nói của bà làm cho thực khách thật sự mến phục. Tui lại lan man nhớ đến ông anh họ từ một đại uý từng tốt nghiệp trường Võ Bị Đà Lạt thế mà vào thời hoàng kim ấy đi lang thang các nẻo đường rao: “Ai bán răng vàng bạc vụn không?” Ông đi rao bán ngang qua chỗ tui ngồi vá xe, hai anh em ôm nhau khóc, tui móc hết tiền lẻ trong túi đãi ông một chầu bún riêu. Bà thiếu tá thương tình, mua một tặng một. Ba người ngồi tâm sự với nhau cuối cùng cả ba đều rơi nước mắt.

 

Rồi tui hỏi hai ông bạn già có biết bo bo là cái quái gi không? Xừ John lật đật lấy xeo phôn hỏi bác Google: Nguồn Vietfarm nói rằng đây là một loại hạt quý rất bổ dưỡng và có tác dụng chữa bịnh, giá thành hiện nay cũng không rẻ. Xừ Hinh chợt nhó ra vỗ trán nói ngay:

 

– Tui hiểu cha nội rồi, ý ông nói là bo bo mà quý mẹ gì. “Thời hoàng kim”sau 75, dân Việt Nam ăn món đó thay cơm, ăn đến nỗi đẻ ra thằng con đặt luôn tên trong nhà cho nó là thằng Bo Bo.

 

Cả ba cùng cười ha hả, cười ra nước mắt. Tui lại “ca ngợi” tiếp thời hoàng kim ngày cũ:

 

– Hồi đó chắc ông Hinh còn nhớ, chợ trời la liệt toàn những đồ quý hiếm, những của gọi là “gia bảo” người ta cũng đem ra bán, có đất nước nào trên trái đất này mà chợ trời bán toàn đồ thật, đồ quý, đồ xịn với những cái giá bèo bọt dở khóc dở cười như thế không?

 

Nói đến đây tui rưng rưng nhớ lại má với chị Hai của tui đi cầm sợi dây chuyền mặt cẩm thạch mà bà cố truyền lại, để có tiền đi thăm nuôi hai cha con tui. Chị Hai kể lại là lúc đó má tay cầm sợi dây mà khóc sướt mướt.

 

Ba cái “chiện” này hồi đó từ trẻ sơ sinh đến ông già sắp xuống lỗ ai mà hổng biết, dzậy đó mà cuối cùng ai cũng quên, hoặc là cố ý quên. Tui không có ý nhắc cho mấy người sống thời hoàng kim đó nhớ để họ đau đầu, tuổi của tui cùng những người cùng thời chắc cũng chẳng làm ăn gì được nữa đâu. Ý của tui: những người còn chút Lương tri hãy nhớ lại mà đừng làm những gì tiếp tay cho lũ khỉ rừng phá hoại non sông, xua đuổi rồng vàng. Thôi! Bà dzợ Cần Thơ của xừ John đang bưng một dĩa gỏi đu đủ chiêu đãi ba ông chính khách về chiều, tui phải ngưng thôi, nói nữa là lát nữa nhìn cái dĩa... láng coóng thì đừng có trách.

 

– Ngọc Thanh Thi

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.