Hôm nay,  

Những Ngôi Thánh Đường Cổ Nổi Tiếng Thế Giới

22/12/202108:27:00(Xem: 4387)



Thiên Chúa Giáo hay Công Giáo được xem là một trong những tổ chức tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới. Giáo hội này đã đóng vai trò nổi bật trong lịch sử nền văn minh Phương Tây. Các nhà thờ hay còn gọi là vương cung thánh đường là nơi thờ phượng Thiên Chúa và cũng là nơi có những kiến trúc đặc thù thể hiện văn hoá, văn minh đặc thù của mỗi quốc gia, mỗi điạ phương ấy. Lần này tôi xin giới thiệu cùng bạn đọc những ngôi thánh đường nổi tiếng trên thế giới mà tôi đã may mắn được ghé thăm.

 

1) Cusco Catheral (The Cathedral Basilica of the Assumption of the Virgin)


Pic 1 Cusco Cathedral 

Còn được gọi là Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Đồng trinh, là nhà thờ chính của Tổng giáo phận Công giáo La Mã Cusco. Nhà thờ nằm trong khu Plaza de Armas. Toàn bộ tòa nhà được xây dựng từ năm 1560-1654, liền kề và nối liền với nhà thờ Iglesia del Triunfo (nhỏ hơn) . Đây là nhà thờ Thiên Chúa Giáo đầu tiên được xây dựng ở Cusco, Peru. Nhà thờ, ngoài tư cách chính thức là nơi thờ tự, đã trở thành một kho lưu trữ lớn về nghệ thuật thuộc địa của Cusco. Nó cũng lưu giữ nhiều hiện vật khảo cổ và di tích. Nhà thờ đã được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới theo danh sách của Thành phố Cusco vào năm 1983.

 

2) St. Basil's Cathedral


Pic 2 Thánh đường ST Basil Nga 

Thánh đường Basil là công trình kiến trúc nổi tiếng nhất thủ đô Moscow, Nga. Nhà thờ tọa lạc ngay giữa lòng Moscow, phía Nam của Quảng Trường Đỏ và gần cung điện Kremlin. Nhà thờ với kiến trúc độc đáo này là một trong 7 kỳ quan hấp dẫn du khách nhất. Để kỷ niệm chiến thắng quân Mông Cổ năm 1522, Ivan The Terrible vị sa hoàng đầu tiên của nước này đã ra lệnh cho kiến trúc sư Postnik Yakovlev xây dựng một nhà thờ hoành tráng trên nền nhà thờ Trinity cũ. Chiến thắng quân Mông cổ diễn ra đúng vào ngày lễ cầu nguyện cho Đức Mẹ Đồng Trinh, do đó Ivan đã quyết định đặt tên nhà thờ là "Nhà Nguyện". Khởi công vào năm 1555, công trình phải mất 11 năm, tức là năm 1561, mới hoàn thành.

 

3) The Primatial Cathedral of Saint Mary of Toledo


Pic 3 Toledo Cathedral 

Nhà thờ chính tòa tổng giáo chủ Thánh Mary của Toledo, Spain, là một nhà thờ Công giáo La Mã và cũng là  trung tâm của Giáo phận Công giáo Toledo. Đây là một trong ba nhà thờ có kiến trúc Gothic thời thế kỷ 13 ở Tây Ban Nha. Theo quan điểm của nhiều nhà chức trách, đây là một kiệt tác của phong cách Trung Cổ ở Tây Ban Nha. Nhà thờ được xây dựng năm 1226 dưới sự cai trị của đại đế Ferdinand III. Nó được mô phỏng theo Nhà thờ Bourges và đã kết hợp một số đặc điểm của phong cách Mudéjar. Nó được xây dựng bằng đá vôi trắng từ các mỏ đá ở Olihuelas, gần Toledo.

4) Lisbon Cathedral

Pic 4 Lisbon Catheral
Còn được gọi là The Cathedral of Saint Mary Major, đây là một nhà thờ Công giáo La Mã toạ lạc ở Lisbon, Bồ Đào Nha. Nó là ngôi Thánh Đường lâu đời nhất trong thành phố Lisbon, Portugal. Được xây dựng vào năm 1147, nhà thờ đã trải qua nhiều trận động đất và được sửa đổi, cải tạo và trùng tu nhiều lần. Ngày nay nó là sự pha trộn của nhiều phong cách kiến ​​trúc khác nhau, Romanesque, Gothic, Baroque. Nó đã được xếp hạng là Di tích Quốc gia từ năm 1910.

 

5) Church of Hagia Sophia


Pic 5 Hagia shopia catheral 

"Hagia Sophia" có nghĩa là "Sự khôn ngoan của Thiên Chúa". Ngôi thánh đường này ban đầu là một Thánh Đường của Chính Thống Giáo La Mã, sau được biến đổi thành thánh đường Hồi Giáo khi bị đế quốc Ottoman xâm chiếm. Nó đặc biệt nổi tiếng vì vòm trần lớn, tòa nhà này được xem là hình ảnh mẫu mực của kiến trúc Byzantine, và được coi như đã "thay đổi lịch sử của kiến trúc". Đây từng là nhà thờ lớn nhất thế giới trong gần một ngàn năm, cho đến khi nhà thờ chính tòa Sevilla hoàn thành vào năm 1520. Nhà thờ có một bộ sưu tập các thánh tích và có một bức tường tranh bằng bạc dài 15 m. Đây là nhà thờ trung tâm của Giáo hội Chính thống giáo Đông phương trong gần 1000 năm. Nay Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ chuyển nó thành một viện bảo tàng.

6) The Santorini Blue Domes Churches

Pic 6 Blue domes church 

Được đặt trong khung cảnh lung linh của biển Aegean lấp lánh, các Thánh Đường Santorini Blue Domes thường nổi bật trong hầu hết các tấm bưu thiếp được gởi ra từ các hòn đảo của Hy Lạp. Các nhà thờ có mái vòm xanh là nhà thờ Agios Spiridonas và Anasteseos (Nhà thờ Phục sinh) là hai hình ảnh được các tay nhiếp ảnh gia săn tìm để chụp ảnh nhiều nhất ở ngôi làng Oia, đảo Santorini, Greece. Cả hai đều được xây dựng ở rìa của các vách đá ngay cạnh nhau. Giữa những bức tường sơn trắng, những mái vòm màu xanh dương đậm mang đến một sự nổi bật đáng ngạc nhiên. Nó được đặt theo tên của một vị thánh có nguồn gốc Hy Lạp, Thánh Gerasimos, vị thánh bảo trợ của đảo Kefalonia.

 

7) Riga Cathedral


Pic 7 Riga Catheral 

Thánh đường Riga là địa điểm tôn giáo lâu đời nhất trong thành phố Latvia. Viên đá đầu tiên được đặt vào ngày 25 tháng 7 năm 1211 bởi Giám mục Albert của Riga. Ban đầu, nhà thờ được xây dựng theo phong cách hình học, Romanesque với ý nghĩa sẽ trở thành trung tâm của Cơ đốc giáo ở vùng Baltic. Hiện nay, Nhà thờ Riga có sự kết hợp của các phong cách Gothic, Romanesque, Baroque và Art Nouveau. Đặc điểm chính của nó là chiếc đàn Organ có tới 6718 ống, được chế tạo bởi E.F. Walcker & Co vào năm 1883-1884. Chiếc Organ này được coi là một trong những chiếc Organ quý giá nhất trên thế giới. Ngày nay, nhà thờ đóng vai trò là ngôi đền thờ Luther chính của đất nước và là nơi đặt trụ sở của Tổng giám mục Nhà thờ Tin lành Luther của Latvia.

 

8) The Alexander Nevsky Catheral


Pic 8 Thánh đường ở Estonia Âu Châu 

Nhà thờ chính tòa Alexander Nevsky là một nhà thờ Chính Thống giáo ở phố cổ Tallinn, Estonia. Nhà thờ này được xây dựng theo thiết kế của Mikhail Preobrazhensky với phong cách kiến trúc hồi sinh của Nga giữa năm 1894 và 1900, khi đất nước này là một phần của Đế quốc Nga. Đây là nhà thờ chính tòa và nhà thờ có mái vòm Chính Thống giáo lớn nhất của Tallinn. Nhà thờ dành cho Thánh Alexander Nevsky người giành chiến thắng năm 1242 trận chiến bên hồ Peipus, trong vùng lãnh hải nay thuộc Estonia. Khi Liên Xô theo đuổi chính sách phi tôn giáo, nhiều nhà thờ trong đó có nhà thờ này bị bỏ phế. Nhà thờ đã được phục hồi một cách tỉ mỉ từ khi Estonia giành được độc lập từ Liên Xô vào năm 1991.

 

– Trịnh Thanh Thủy

 (Ảnh Trịnh Thanh Thủy)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.