Hôm nay,  

Cuối năm đọc thơ, xem tranh với: Viết bên dòng Potomac 1975-2025

21/12/202507:00:00(Xem: 727)
blank

Cuối năm đọc thơ, xem tranh với:

Viết bên dòng Potomac 1975-2025
 

Phan Tấn Hải
 

Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế.  Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi. Và nhiều nữa. Bây giờ California chớm lạnh rồi, hẳn là Miền Đông đang lạnh gay gắt.

Do vậy, mỗi lần mở ra xem tuyển tập các sáng tác thơ, văn, họa của các văn nghệ sĩ đang ở bên dòng sông Potomac, nơi giáp biên thủ đô và hai tiểu bang Virginia, Maryland, những trận mưa tuyết lại rơi rất nhẹ bao phủ bầu trời ký ức. Những hàng cây hoa anh đào đứng kiên nhẫn ở thù đô.  

"Viết bên dòng Potomac" là tên một tuyển tập văn học đặc biệt gồm 2 tập, tập hợp các tác phẩm của 86 tác giả người Việt định cư tại vùng lân cận và  thủ đô Washington D.C. (quanh dòng sông Potomac, Hoa Kỳ), kỷ niệm 50 năm người Việt hải ngoại (1975-2025), thể hiện sự đa dạng về hoàn cảnh và nghiệp văn của cộng đồng người Việt tại đây. Sách đang lưu hành ở mạng Lulu.
 
blank

Có một bài thơ trong tuyển tập mà tôi đã đọc nhiều thập niên, và bây giờ thỉnh thoảng vẫn mở ra đọc lại. Đó là bài "Trời Mưa Đi Phát Báo" của Giang Hữu Tuyên (1949-2004), người có thân hình không được khắc khổ gầy gò như chúng ta thường thấy ở nhiều nhà thơ ở quê nhà. Anh Giang Hữu Tuyên và nhà báo Ngô Vương Toại (1947-2014) có nhiều năm đi bên nhau sát cánh, để giúp Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích trong nhiều sinh hoạt văn nghệ, cộng đồng, và dĩ nhiên, đòi hỏi nhân quyền cho đồng bào quê nhà. Bây giờ tôi đã vào tuổi cổ lai hy được vài năm, với mắt đã lòa và tai đã lãng, vẫn luôn luôn kinh ngạc khi nhớ rằng những người cực kỳ thơ mộng như hai anh Tuyên và Toại lại không ở lâu trong cõi đời này. Giang Hữu Tuyên ra đi năm 55 tuổi, anh Toại ra đi năm 67 tuổi.

Anh Giang Hữu Tuyên ưa đọc thơ cho "hậu bối" (là tôi) khi có dịp. Anh Tuyên thường có những cao hứng như thế. Tôi còn nhớ mấy dòng trong bài thơ “Về giòng sông Trẹm” anh Giang Hữu Tuyên ưa đọc:
 

Chinh chiến người đi như lá mục

Giòng sông kia nước đỏ thêm hoài

Máu ai chảy từ bao năm trước

Mà nối không liền được đất đai.

Thơ anh rất buồn. Khi nhắc tới hai anh Tuyên và Toại, tôi luôn luôn nhớ tới GS Nguyễn Ngọc Bích, người có nhiều năm giữ chức Giám Đốc Đải RFA và từ trần trên một chuyến bay sang nước Úc. Ra đi ngay trên bầu trời, giữa các vầng mây. Có phải các cõi trời chờ sẵn trên mây để đón giáo sư Bích? Những buổi sinh hoạt dù văn nghệ hay cộng đồng của các anh Bích-Tuyên-Toại gần như luôn luôn có mặt nhà giáo Nguyễn Văn Khanh (về sau, là nhà truyền thông của Đài RFA và bây giờ là bình luận gia của báo Người Việt), nhà khoa học Trương Hồng Sơn (người nhiều năm sau nổi tiếng như một nhà văn và họa sĩ Trương Vũ), nhà thơ Trương Anh Thụy (người có văn phong thơ rất mực cổ kính), đôi khi có mặt nhà văn Nguyễn Thị Hoàng Bắc, nhà thơ Nguyễn Thị Thanh Bình.
 blank

Ký ức những trận mưa tuyết Virginia trong tôi cũng hiện ra họa sĩ Ngọc Dũng, người không có mặt nhiều với cộng đồng vì bận công việc trong tòa soạn báo Mỹ; rồi mơ hồ nhớ tới nhà báo Lê Thiệp khi anh tới Miền Đông mở tiệm phở... Tuyệt vời thơ mộng ở Miền Đông cũng là nhà thơ Hoàng Xuân Sơn, nhạc sĩ Hoàng Xuân Giang, nhà văn Hồ Đình Nghiêm... khi tôi lái xe qua thăm bạn học là nhà thơ Lưu Nguyễn. Và những buổi lang thang hiếm hoi ở New York với họa sĩ Nguyễn Quỳnh, người khi sang Mỹ đi học lại và lấy 2 bằng Tiến sĩ (mà một chuyên ngành rất phức tạp, hình như là triết học về mỹ thuật, buộc phải học thêm tiếng Đức...) và bây giờ anh Quỳnh đã về dạy ở một đại học San Antonio (Texas) từ lâu. Tôi còn nhớ một lần bị cảnh sát ghi giấy phạt vì đậu xe ẩu dưới khu chung cư anh Quỳnh.
blank
 

Nơi đây, nhân dịp cuối năm, xin trích đăng một số bài thơ trong tuyển tập "Viết bên dòng Potomac" để cho tròn 50 năm Miền Nam sụp đổ. Lựa chọn phần lớn sẽ là tình cờ. Sẽ xen kẽ với vài tranh chụp lại từ Tuyển Tập.

.

.... o ....

Bài dưới đây là của Giang Hữu Tuyên.

 

TRỜI MƯA ĐI PHÁT BÁO

Chiều ngã năm đường năm bẩy ngã

Ngã nào cũng ướt giọt mưa rơi

Bao mùa mưa đã im giông bão

Sao nước trường giang vẫn khứ hồi

 

Mười mấy năm làm tên phát báo

Lòng buồn theo thành quách xa xưa

Những trang tin dội từ quá khứ

Rớt ngập ngừng cùng những hạt mưa

 

Mưa lót ngót, đời loi ngoi mãi

Sáng chưa đi, chiều lại mưa về

Mưa ngã năm từ năm bẩy ngã

Ngã nào cũng mưa và mưa thôi

 

Xấp báo trên tay vừa ướt hết

Vậy mà cứ đứng dưới mưa bay

Hình như những mùa mưa thuở trước

Đang về làm ướt trái tim ai.

-- GIANG HỮU TUYÊN (Viết Bên Dòng Potomac I, trang 146)

 

.... o ....
 

Bài thơ dưới đây của Hoàng Hải Thủy.

 

ĐỌC THƠ VŨ HOÀNG CHƯƠNG

Một mảnh hồng tiên trĩu ngón tay.

Hương mùa thu mất ngậm ngùi bay.

Anh vẫn Hoàng Chương, vàng với ngọc,

Trần ai nào lấm được trời mây.

Người về ngôi cũ, thơ trầm nhạc,

Tàn lửa hồng hoang, khói mái tây.

Chín ngục A Tỳ ma sửa mũ,

Mười tầng địa phủ quỉ cung tay.

Cười vang một tiếng tan tinh đẩu,

Sáu cửa luân hồi nhẹ cánh bay.

-- HOÀNG HẢI THỦY (1933-2020) (VBDP 1, tr. 167)

 

.... o ....

 blank

Bài thơ dưới đây của Phạm Cao Hoàng.

 

KHI DỪNG LẠI BÊN DÒNG POTOMAC

khi dừng lại bên dòng Potomac

em bên tôi vẫn rất dịu dàng

gió lồng lộng cả một trời Đông Bắc

tóc em bay trong nắng thu vàng

  

và như thế mình đi và đã đến

mình đã tìm và gặp được dòng sông

tôi ngồi xuống để nghe sông hát

và đứng lên ôm lấy mặt trời hồng

  

và như thế mình đi và đã đến

đã bên nhau thủy tận sơn cùng

tôi nằm xuống để nghe đất thở

tạ ơn đời độ lượng bao dung

  

khi dừng lại bên dòng Potomac

tôi và em nhìn lại quê nhà

buồn hiu hắt thương về chốn cũ

phía chân trời đã mịt mù xa

-- PHẠM CAO HOÀNG (VBDP II, tr. 106-107)

 

.... o ....
 

Bài thơ dưới đây của Trần Hoài Thư.

 

ĐÊM TỪ BIỆT VIỆT NAM

Lăn chiếc phuy dầu lên cá lớn

Trời ơi, ta từ biệt Việt Nam

Việt Nam. Đêm ấy đêm trừ tịch

Có những con người lại cách ngăn

  

Chào những đường thân, những lối quen

Những hàng cây rũ lá bên thềm

Chào cây cầu đá qua thành phố

Chào những bờ hiên, những cột đèn

  

Chào ai, lầm lũi trong đêm lạnh

Cơn gió giao mùa chớm lá xuân

Người về cho kịp đêm đoàn tụ

Ai lại lên đường. Ai lặng câm

  

Vẫn biết lần đi là bỏ hết

Là phủi tay. Cháy túi. Sạch trơn

Quay nhìn lại: Em còn bóng nhỏ

Ngọn đèn vàng lạnh một dòng sông

  

Về đi. Em nhớ đừng ôm mặt

Rồi thắp giùm anh một nén nhang

Con có hỏi anh. Em hãy chỉ

Mây dịu dàng trôi giữa mênh mông

  

Về đi để tiếp đời cô phụ

Tiếp mảnh hồn khô héo nhớ nhung

Mai mồng Một, cắn răng đừng nấc

May cuộc đời tươi đẹp mùa xuân

  

Về đi để trả bài ma quỉ

Những đau thương câm nín chất chồng

Em hãy lấy ngày này giỗ kỵ

Một ngày nào chim đã bặt tăm

 

Về đi, kẻo máy tàu đã nổ

Như những người ôm ngực con tim

Trong khoang chật, nghe chừng nín thở

Anh hùng đâu. Một nỗi lặng thinh

  

Gió trừ tịch hú dài Bãi Giá

Đập mạn thuyền, sóng vỗ buồn tênh

Đêm vượt thoát ai ngồi nín thở

Cả quê nhà, mờ nhạt hai bên

  

Lăn chiếc phuy dầu lên cá lớn

Trời ơi, ta từ biệt Việt Nam

Việt Nam. Một vệt mờ xa thẳm

Một chút rưng rưng bật xé lòng

  

Việt Nam. Tối quá, không đèn lửa

Ta ở trên thuyền ngực vỡ toang

Một nỗi buồn như đông đặc lại

Một nỗi vui oà vỡ cả hồn

  

Là lúc biết mình như thoát nạn

Sáng chân trời, hồng rực vầng dương

Là lúc, thấy mình như bất hạnh

Sắp làm người không có quê hương

 

Là lúc lòng dửng dưng chờ đợi

Nỗi dửng dưng buồn bã lạ lùng

Như thể trong một trời chuyển động

Một giọt sương cô độc tận cùng.

-- TRẦN HOÀI THƯ (1942-2024) (VBDP II, tr. 393-394)

 

.... o ....
 blank

blank
Bài thơ dưới đây của Đinh Cường.
 

ĐOẠN GHI SAU NGÀY TUYẾT BẤT NGỜ

đường trơn

tuyết đọng chưa tan

đi qua con suối

đóng băng mấy tầng

rừng như đứng

chịu tang chung

giải khăn trắng tuyết

phủ choàng nhánh khô

   

còi tàu hụ

nhớ giang hồ

lên ga khuya lạnh

gió mờ mịt xa

Sông Mao qua

đến ga Truồi

than bay đốm sáng

tàu xuôi mấy chiều

  

người đi

bóng đổ liêu xiêu

đường trơn

tuyết đọng

đìu hiu

Tết rồi ...

-- ĐINH CƯỜNG (1939-2016). Virginia, Jan. 9, 2012 (VBDP I, tr. 66)

 

Tuyển tập Viết Bên Dòng Potomac Tập I & Tập II hiện đã lưu hành trên mạng. Tìm mua sách, xin vào:

https://www.lulu.com/shop   

gõ chữ "viet ben dong potomac"

blank

blank
Hoặc liên lạc mua sách qua Email: [email protected]

Điện thoại: (703) 608-8001.

Địa chỉ:

7217 Belinger Ct., Springfield, VA 22150.

ẤN PHÍ: 70 USD

Cho 1 bộ (gồm 2 cuốn có hộp cover + cước phí)

.

 

 





Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.