Hôm nay,  

Nguyễn Lương Vỵ, ngồi im nghe thơ lắng trong kinh

12/02/202209:43:00(Xem: 6007)
blank

Nguyễn Lương Vỵ, ngồi im nghe thơ lắng trong kinh *
 
Nguyễn thị Khánh Minh
 
Tặng Nguyễn Lương Vỵ cùng sinh nhật tháng 5.
 

(Lời Giới Thiệu: Bài của nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh đăng nơi đây để tưởng nhớ tròn một năm nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ (1952-2021) ra đi. Nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ sinh ngày 9/5/1952 tại Quán Rường, Tam Kỳ, Quảng Nam. Từ trần ngày 18/2/2021 tại Quận Cam, California. Nguyễn Lương Vỵ nổi tiếng trong giới văn học Miễn Nam VN từ 1969, khi còn là học sinh trung học. Ông sáng tác đa dạng, nổi bật với văn phong riêng biệt, xuất sắc trong cả thơ đời và thơ đạo. Những năm cuối đời, Nguyễn Lương Vỵ dịch sang tiếng Việt hiện đại nhiều bài thơ Thiền các đời Lý Trần.
.
Tác phẩm đã in của Nguyễn Lương Vỵ:
. Âm Vang Và Sắc Màu (NXB Trẻ, Sài Gòn, 1991);
. Phương Ý (NXB Thanh Niên, Sài Gòn, 2000);
. Hòa Âm Âm Âm Âm… (NXB Thư Ấn Quán, New Jersey, 2007);
. Huyết Âm (NXB Q&P Production, California, 2008);
. Tinh Âm (NXB Q&P Production, California, 2010);
. Bốn Câu Thất Huyền Âm (NXB Q&P, Production, California, 2011);
. Tám Câu Lục Huyền Âm (NXB Q&P Production, California, 2013);
. Năm Chữ Năm Câu (NXB Q&P Production, California, 01.2014);
. Năm Chữ Ngàn Câu (NXB Q&P Production, California, 12.2014);
. Tuyển Tập Thơ 45 Năm (1969 – 2014) (NXB Sống, Q&P Production, California, 2015).
. Tuyển Tập Thơ 50 Năm (1969-2019) (Văn Học Press, Q&P Production, California, 2020).
Bài viết của Nguyễn Thị Khánh Minh như sau.)
.
                                      ….()….
.

Nguyễn Lương Vỵ, ngồi im nghe thơ lắng trong kinh *
 
Nguyễn thị Khánh Minh
 
Tặng Nguyễn Lương Vỵ cùng sinh nhật tháng 5.

Đang thong thả dong ruổi những ngày góc phố cà phê, đang yên tâm những lần đi bác sĩ, lúc nào tôi cũng có người bạn thân tình Nguyễn Lương Vỵ (NLV) đón đưa, chia sẻ, đùng một cái, anh nằm viện, mổ tim. Đã hơn một năm từ ngày trái tim thơ ấy bị nghẽn mạch, giờ NLV vẫn đang ngày ngày trông nắng đến nắng đi nơi phòng bệnh. Từ khung cửa sổ ấy tôi thấy hoa tím vàng rơi đầy vào một ngày mùa thu đến thăm anh. Nhìn và hình dung những giây phút sớm khuya đâu đó của anh:
 

…sương rơi nương bóng thềm rêu nhạt
lá rụng nghiêng vai giọt nắng tràn…

… ngồi im nghe nắng khuya đang vỡ…

một vạt nắng chiều giăng tiếc nhớ
hai hàng mưa bụi đẫm thương mong…
tuổi già ghiền nhớ dăm áng mây
quê thì xa chiêm bao thì gầy
thở nhẹ ngóng ai về đâu đó
hít sâu nghe núi lạnh quanh đây…

ứa mật chín chiều rung chín mận
hôn hoàng mấy bận đỏ hoàng hôn…

… giật mình tỉnh giấc còn ấm ngực
ngồi dậy ngoài hiên đã sáng trưng!…

(trích từ những bài thơ mới nhất của NLV)
 

Nghe chứa chan nỗi trôi cô liêu của thời gian bịnh. Nhưng bạn ơi, rồi bạn sẽ thấy người thơ đã sống với cô liêu ấy như thế nào. Cứ mỗi lần bịnh anh trở chứng là mỗi dấy lên lo âu, cầu nguyện của bạn hữu. Hôm nào được đi thăm anh, thấy anh vui vẻ tươi tỉnh là lúc ấy ai cũng vui, nói với nhau, khí sắc Vỵ đã khá hơn rồi, nhất định anh ấy sẽ vượt qua để lại cùng nhau vui chơi ngày tháng… Vỵ nói, “tôi còn nhiều việc phải làm lắm, dịch cho xong thơ Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát, thu xếp tập di cảo thơ của cậu em.”

Thời gian của anh là làm việc và làm việc cật lực cho sáng tác và dịch thuật. Sáng tác thì tôi thiết nghĩ với cả chục thi phẩm đã xuất bản đủ trả lời cho chúng ta, anh và người bạn đường thời gian đã sống với nhau ra sao, anh bảo anh chẳng làm gì chỉ mỗi năm cho ra một tập thơ thôi!
 

ta vẫn điên giản dị
nhẩm thơ cất trong đầu
lâu lâu rót một xị
mời quí vị ngàn thâu
sáng ra quên rất mau…

(Năm Chữ Năm Câu, bài 71, 2013)
 

Một xị thơ cứ thế… thành một dòng thơ lấp lánh hòa vào muôn trùng biển tinh anh của nhân gian.

 
Bên cạnh đó là niềm đam mê dịch thơ Hán, Nôm của những tác giả anh ngưỡng mộ như Trần Nhân Tông (đã xuất bản), Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát, đó là giây phút mà anh cảm thấy … chữ người xưa như trăng cổ lâu/ khoảnh khắc thâm giao hồn gặp phách… chả trách Nhà văn Phan Tấn Hải đã viết, “Nguyễn Lương Vỵ đã để cho kinh Phật và lời thơ Trần Nhân Tông ngấm vào thịt da xương tủy của anh, và rồi từng chữ của họ Nguyễn viết xuống đều mang sức nặng như núi đè lên giấy… khi nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ viết xong các trang giấy này, chữ hốt nhiên trở thành cánh chim bay rời trang giấy. Để biến vào thế giới duyên khởi trùng trùng của Kinh Hoa Nghiêm…” (Phan Tấn Hải, Khoảnh Khắc Chiêm Bao, tr.23, Ananda Viet Foundation xuất bản 2018)
 

đóng cửa suốt đêm ngồi dịch thơ
chữ người xưa như trời xanh lơ
lời nhắn tri âm rung bích ngạn
ý vang tâm huyết vút tinh mơ
ức trai mắt sáng trừng oan nghiệt
bá quát tim son chết bất ngờ
khuya tận một mình ngơ ngác hỏi
thạch sùng chậc lưỡi vách im trơ.

(Suốt Đêm Ngồi Dịch Thơ, 6.2017)
 

Cứ những khuya tận một mình ngơ ngác hỏi như thế, anh cống hiến cho đời những tuyệt phẩm thơ và thơ dịch. Mấy ai sống được cái một mình, không nguôi nỗi tự hỏi để nhìn thấy sâu thẳm tâm mình như vậy…
 

bỗng rùng mình câu thơ thắm lại
vài âm lục trúc rụng trên đồng
chùm bông nắng lụa nồng hương tóc
búp lá mưa trăng ấm tấc lòng
trùng hiện từng giây bưng mặt hỏi
khắc ghi vạn thuở siết tay mong
mới hay rõ một trong tâm tưởng
thinh lặng trào lên giọt máu hồng

(Học Lặng Thinh, 9,2017)
 

Những ngơ ngác hỏi, bưng mặt hỏi, hỏi và hỏi mãi, người thi thiền nhập định…
 

có chi đâu có đặng
gặn hỏi nói không đành
rằng thì là thinh vắng
sống là chết long lanh
nói thiệt đừng có hoảng…

(Năm Chữ Năm Câu, bài 74, 2013)
 

phiêu bạt trời quen chưa dứt nợ
lang thang đất lạ vẫn hàm ơn
chim khách là ta nay đã thấu
thấu ta ta thấu cái sạch trơn…

(Nhịp Thời Gian, 7.2017)
 

chậc lưỡi làm chi cho rách việc
học lặng thinh và lặng thinh thôi…

(Học Lặng Thinh, 9,2017)
 

Là Nguyễn Lương Vỵ đấy, bạn có cùng tôi, cười vui cùng nhiệt huyết thơ và sự giản dị nhẹ nhàng trong quan niệm sống của anh không? Có phải vì bước mải mê theo những tình sau chưa dứt lơi đôi nhịp/ ý trước còn vang đọng mấy câu (NLV) cộng thêm làm việc trong đam mê nữa mà NLV đã xoay sở với cô liêu một cách thống khoái đó chăng?
 

Giờ này anh vẫn đang nằm bịnh, tôi vẫn mỗi ngày trong những thời tụng kinh, đều cầu nguyện Phật Dược Sư độ trì cho anh, đã viết bài thơ tặng Vỵ lúc anh vừa qua cơn mổ tim,
 

Có ánh nắng vùi quên trong mắt
Và tiếng chuông nhẹ lắm. Trong tim
Nhẹ như thời gian trôi lặng im
Khan giọng gió đêm về rung cửa

Dốc tử sinh lao chao bờ vực
Tiếng kinh trầm nương tựa. Ta đi
Ấy con đường nghìn tay nghìn mắt
Có mặt trời. Tỏa ánh lưu ly

Chạm vào ta ánh sáng diệu kỳ
Ngày bật dậy hồng hào thân thể
Nhịp tim reo ba la yết đế
Đá mềm chân cứng bước rong chơi

Ô. Tiếng chim báo ngày nắng tới
Nắng tháng Tư nắng của mùa xuân
Nhạc bình minh réo rắt phương Đông
Ta thức giấc một hồn nắng mới

Này hơi thở mạch trào trong suốt
Này tinh khôi từng nhịp sơ sinh
Kinh biếc mở lời thơ lồng lộng
Mai ta đi mình lại với mình…

(NTKM, Ngày Nắng Mới, 4.2018)
 

Trên con đường ấy anh kiên trì chịu đựng, theo cách của anh, Này cái lạnh ta thề sẽ buốt / Suốt xương da để vẽ môi cười (NLV). Tôi cảm tưởng tiếng cười kia bật lên từ cảm nhận đến tận cùng cái đau của thể xác. Có chút hóm hỉnh trong kiểu thách thức với hoạn nạn ấy chăng, Vỵ ơi!
 

Nơi khung cửa sổ ấy, cũng có nắng phương Tây rực ánh lưu ly soi vào, phút giây cùng anh can đảm sống và tận hiến trong những lời thơ thở cùng con bệnh, dù có khi anh thấy mình cánh chim lẻ loi, vạt nắng ngàn thâu, vẫn sừng sững một tâm cảnh thinh lặng uy nghi:
 

khuya tháng tư nghiêng hết mái tây
cuối đời ta như chim lạc bầy

khuya tháng tư nghiêng hết mái đầu
cuối đời ta như nắng ngàn thâu

khuya tháng tư thinh lặng uy nghi
cuối đời ta chẳng tiếc điều gì…

(NLV, Không Đề Tháng 4, 4.2017)
 

Và phải chăng có chút tương lân của đồng bệnh, tôi hiểu nỗi hạt lệ một mình thao thức trong cái túi cô đơn ấy, cũng đã nhiều bận lọt vào vòng tay của giấc mơ. Dường như đó là cách vừa phải nhất có thể để đưa mình qua phút ngộp thở của điều không thể. Nghe NLV nói về kinh nghiệm của mình:


lệ khô đêm tận ngồi như tượng
một đống chiêm bao đến nắm tay…

lệ khô đêm tận ngồi như miếu
một đống chiêm bao đến thỉnh cầu…

lệ khô đêm tận ngồi như núi
một đống chiêm bao đến rủ đi…

(NLV, Không Đề Tháng 4, 4.2017)
 

trên cao tiếng hát bông gòn trắng
dưới thấp lời ru vuông chiều hồng
nghe ngóng thế thôi rồi chớp mắt
trông vời vậy đó để mơ mòng

(NLV, Sớm Thu Không, 8.2017)
 

Cũng dường như, đó là cách thúc thủ tích cực nhất, mở cho mình một cánh cửa nhìn về phía trước với lực đẩy của Chiêm Bao, Giấc Mơ -người bạn đồng hành đầy vị tha và lạc quan-. NLV còn có một ánh sáng nương tựa nữa trong thời gian bịnh này, giúp anh vượt qua từng chặng đường, ánh sáng của âm nhạc của lời kinh niệm, của lời thơ viết, phải chăng là châu báu mà anh cúng dường trong phút nguy nan để tìm về tâm tĩnh lặng?
 

long lanh tinh huyết sôi âm nhạc
lóng lánh thời kinh dịu nỗi đau
tình sau chưa dứt lơi đôi nhịp
ý trước còn vang đọng mấy câu

(NLV, Không Đề Tháng 4, 4.2017)
 

Ơn phước làm sao. Tôi cũng như anh, có niềm tin vào sức mạnh của trì niệm… Thật vô cùng hân hoan khi đọc câu thơ lóng lánh thời kinh dịu nỗi đau, ánh sáng của từ bi cho ta nương tựa. Vỵ ơi, anh vốn là người kiên cường chịu đựng, huống chi anh lại có tín tâm:

…tuổi già ghiền lẩm bẩm một mình
một câu thơ niệm một câu kinh…

(NLV, Bolero Bên Đèn Khuya, 6.2017)
 

… cuối đời cố gắng học lặng thinh
ngồi im nghe thơ lắng trong kinh…

(NLV, Học Lặng Thinh, 9.2017)
 

… cuối đời xin cảm tạ cô liêu
mần thơ được nhiêu thì mừng nhiêu…

… một chấm son một tuyệt mênh mông
mần thơ suốt kiếp với phiêu bồng

(Cảm Tạ Cô Liêu, 7.2017)
 

Có ánh sáng ấy, niềm đam mê ấy và cõi thinh lặng uy nghi ấy thì thời gian bịnh tật có là gì trong kiếp sống vốn huyễn mộng này,

vẫn một mình gặm nhấm thời gian
có đâu tri kỷ giữa điêu tàn…
…rong chơi một kiếp chưa lơi nhịp
du hí ngàn sau chẳng nghĩ bàn…

(Ghi Chú Ngàn Thu, 10.2017)
 

Trong một bài viết tặng sinh nhật Thu Vàng hồi tháng 12.2018, có đoạn tôi nhắc đến Vỵ, xin chép lại đây như chiếc nơ trang điểm món quà tôi tặng sinh nhật Nguyễn Lương Vỵ trong tháng 5 này. Tháng 5 mà sao tôi muốn nói tháng năm…

“…Trong tháng ngày hạnh phúc này tôi cứ khắc khoải đến bạn thơ, Nguyễn Lương Vỵ, bạn đã đối mặt với sinh tử, vượt qua được cái chết nhưng giờ vẫn còn thức ngủ đêm ngày với phòng bệnh, nơi đó bạn viết … tiếng khóc sơ sanh rung tím mật/ nụ cười cận tử ứa bầm gan… thơ về mây trắng thơm trong mộng/ ghi chú lai rai chấm xuống hàng… ngàn thu xưa về nhẹ trên vai/ trăng cổ lâu xanh những dấu hài. Ôi! Lại những dấu hài… Trần gian biển dâu kia có phải được một lần hài thơ của bạn bước qua rồi sẽ để dấu thiên thu? Một buổi cùng Tấm (Thu Vàng) đến thăm, tôi chỉ biết trong tình bằng hữu, cầu nguyện bạn được mau khỏi bằng lời chú Dược Sư, -án. bệ sát thệ bệ sát thệ bệ sát xã tam một yết đế tóa ha (Có thuốc có thuốc sẽ được chữa khỏi mọi sự đều tốt lành)- … ngày bật dậy hồng hào thân thể/ nhịp tim reo ba la yết đế/ đá mềm chân cứng bước rong chơi… (NTKM)” Vậy nhé, bạn hiền…
 

Lake Park, 4.2019
Nguyễn thị Khánh Minh
 

* Những thơ trích của Nguyễn Lương Vỵ trên đây, tôi hân hạnh được tác giả cho đọc ở dạng bản thảo.

* Cũng không phải tự nhiên mà tôi có món quà này để tặng sinh nhật Vỵ, một buổi đầu tháng 4 khi những đóa tử uyên ương bên hiên nhà tôi rưng tím, nghe từ xa Nguyệt Mai rủ rê, mình làm một trang trên blog mừng sinh nhật anh Vỵ đi, cô nhà thơ chủ biên blog xin những tình thân ái/ còn hoài như hôm nay… này dễ thương đến thế, lúc nào cũng nghĩ đến mọi người, tôi làm sao mà có thể không nghe lời?

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tháng Năm là tháng vinh danh những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho đất nước Hoa Kỳ mà trong đó tất nhiên có người Mỹ gốc Việt. Những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho Hoa Kỳ bao gồm rất nhiều lãnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn học nghệ thuật, v.v… Nhưng nơi đây chỉ xin đề cập một cách khái quát những đóng góp trong lãnh vực văn học của người Mỹ gốc Việt. Bài viết này cũng tự giới hạn phạm vi chỉ để nói đến các tác phẩm văn học viết bằng tiếng Anh của người Mỹ gốc Việt như là những đóng góp nổi bật vào dòng chính văn học của nước Mỹ. Điều này không hề là sự phủ nhận đối với những đóng góp không kém phần quan trọng trong lãnh vực văn học của Hoa Kỳ qua hàng trăm tác phẩm văn học được viết bằng tiếng Việt trong suốt gần năm mươi năm qua.
Vì hình ảnh ảm đạm, buồn sầu, như tiếng kêu đòi tắt nghẹn. Tôi, tác giả, đi giữa lòng thủ đô Hà Nội mà không thấy gì cả, không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Cờ đỏ là quốc kỳ. Mưa sa làm cho những lá quốc kỳ sũng nước, bèo nhèo, nhếch nhác, úng rữa. Một hình ảnh thảm hại. Hình ảnh thảm hại là dự phóng cho tương lai thảm hại. Và thất bại. Lạ một điều, người ta chỉ trích dẫn năm dòng thơ này, tổng cộng 14 chữ, mà không ai trích dẫn cả bài thơ, và hẳn là hơn 90% những người biết năm dòng này thì không từng biết, chưa bao giờ đọc, cả bài thơ, và tin rằng đó là những lời tâm huyết của nhà thơ Trần Dần nói về thời cuộc mà ông nhận thức được vào thời điểm 1955.
Viet Book Fest cho thấy thế hệ trẻ gốc Việt nay đã vượt qua được những ràng buộc cơm áo gạo tiền của thế hệ đi trước, để cộng đồng Việt nay có thể vươn lên với giấc mơ văn học nghệ thuật trên đất nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
Ngày 30 tháng 4 năm nay, 2024, đánh dấu 49 năm ngày Sài Gòn thất thủ vào tay cộng sản Bắc Việt (30 tháng 4 năm 1975). Biến cố này đã mở ra một tương lai đen tối cho dân tộc Việt Nam mà một trong những hệ lụy thảm khốc nhất là hàng triệu đồng bào đã bỏ nước ra đi tìm tự do, trong đó có khoảng hơn 400,000 người chết thảm giữa lòng biển cả. Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài trong 20 năm đã khiến cho hơn 950,000 bộ đội và thường dân miền Bắc chết và khoảng 600,000 lính cộng sản bị thương. Trong khi đó, có khoảng hơn 700,000 thường dân và binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa thiệt mạng, cùng với 1,170,000 lính VNCH bị thương. Phía Hoa Kỳ có 58,281 binh sĩ tử thương và 303,644 lính bị thương. Đó là chưa kể số thương vong của binh sĩ các nước tham chiến ở hai miền Nam-Bắc, theo www.en.wikipedia.org.
Thế giới đang bùng nổ nhiều cuộc chiến tranh, và đang ngún lửa ở nhiều nơi khác: Trung Đông, Ukraine, Miến Điện, Đài Loan, Biển Đông… Một thời Việt Nam cũng đã trải qua nhiều cuộc binh lửa. Khi đọc kỹ Tam tạng Kinh điển, chúng ta cũng sẽ thấy có những cuộc chiến. Bản thân Đức Phật khi mới lớn cũng học kỹ thuật kiếm cung. Trong nhiều kiếp quá khứ, Đức Phật, khi còn ở cương vị Bồ Tát, cũng đã từng ra trận. Nhiều hình ảnh ẩn dụ trong kinh điển cũng cho thấy dấu tích chiến tranh: ngựa chiến, voi chiến, áo giáp, mũi tên… Và rồi tận cùng, Đức Phật nói trong Kinh SN45.7 rằng chiến thắng vinh quang nhất chính là nhiếp phục tham, sân, si – nơi đó chính là Niết Bàn. Đó là mặt trận lớn nhất, gian nan nhất.
Vào ngày 6 tháng 12, 2023, nhà thơ, nhà văn, giáo sư văn học và nhà hoạt động xã hội được yêu mến người Palestine Refaat Alareer đã thiệt mạng trong một cuộc không kích từ Israel cùng với người anh, em gái và bốn đứa con của họ. Trong tuần để tang kể từ đó, những lời tri ân dành cho cuộc đời, sự nghiệp viết lách và các hoạt động nghệ thuật tích cực của Alareer đã tràn ngập khắp nơi trên thế giới. Nhiều lời tri ân được đăng cùng với bài thơ cuối cùng “Nếu tôi phải chết” được ông đăng trên Twitter của mình vào ngày 1 tháng 11 năm 2023. Cho đến nay, bài thơ chia tay như một điềm báo đau lòng của Alareer hiện đã được dịch sang hơn 40 thứ tiếng; được đọc trên các sân khấu thế giới và được viết trên các bức tường sân ga tàu điện; được in trên các biểu ngữ, bảng hiệu, cờ và diều, được giương cao trong các cuộc biểu tình đòi ngưng bắn trên khắp thế giới.
Nhà xuất bản của Ocean Vương trên Marketplace cũng như Ocean Vương trên Instagram của mình đã thông báo về cuốn tiểu thuyết mới sẽ được xuất bản vào tháng 6 năm 2025, Emperor of Gladness. “Emperor of Gladness” là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Ocean Vương, “kể về một năm trong cuộc đời của một thanh niên ương ngạnh ở New England, người tình cờ trở thành người chăm sóc cho một góa phụ 82 tuổi bị mất trí nhớ, tạo nên câu chuyện về tình bạn. sự mất mát và mức độ chúng ta sẵn sàng mạo hiểm để đòi hỏi một trong những ân huệ quý giá nhất của cuộc đời: cơ hội thứ hai.”
Tuyển tập “9 Khuôn Mặt: 9 Phong Khí Văn Chương” của Bùi Vĩnh Phúc là những trang sách phê bình văn học độc đáo, nơi đây 9 người cầm bút nổi tiếng của Miền Nam – Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên – được chiếu rọi trên trang giấy rất mực trân trọng, công phu, phức tạp, và nổi bật là kiểu phê bình văn học rất mực thơ mộng của họ Bùi.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.