Hôm nay,  

Giải Thoát

20/02/202210:55:00(Xem: 4359)

Truyện ngắn

Cartoon_Buddhist_Monk_In_Meditation.

 

Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt. Sau nhiều năm lăn lộn chốn quan trường, mỗ ngán ngẩm lắm rồi. Mọi người mang mặt nạ để đối đãi nhau, đồng liêu cười cười nói nói, bắt tay, ôm hôn vỗ lưng bộp bộp nhưng sẵn sàng lụi nhau những phát chí tử. Quan trên thì hớt công đổ tội, bọn bên dưới thì rập rình đoạt ghế mỗ đang ngồi. Chính trường tràn gió tanh mưa máu, miệng lằn lưỡi rắn, tâm lang dạ sói, óc muỗi bụng voi. Triều đình đầy nghi kỵ, luôn rình mò từng cử chỉ hay lời nói, hễ lệch hướng một tí là triệt hạ ngay lập tức. Ở công đường là thế, về nhà càng mệt thêm, vợ suốt ngày chưng diện đua đòi làm phu nhân, bà lớn. Con trai nhập băng hút xách, đua xe, quậy phá tưng bừng. Con gái ăn chơi mát trời ông địa luôn. Mỗ ngán ngẩm tình đời, muốn tìm cách giải thoát. Suy nghĩ nhiều lắm, cuối cùng thấy chỉ có xuất gia đầu Phật là con đường giải thoát tuyệt nhất. Nghĩ là làm, tuy nhiên mỗ cũng thủ thế trước, kinh nghiệm quan trường dạy mỗ vậy. Trước hết mỗ xin nghỉ việc không lương trong ba tháng để đi chữa bệnh, sau là mở tài khoản nhà băng bí mật và gom hết giấy tờ tài sản đứng tên riêng cất kỹ. Mỗ cũng nghe nói Phật xuất gia lúc nửa đêm để tránh sự quyến luyến và cản trở. Bởi vậy mỗ đợi ngày vợ con đi chơi xa, lúc bấy giờ mới lên chùa:

 

– Bạch hòa thượng, con muốn xuất gia đầu Phật, xin hòa thượng nhận con làm đệ tử.

 

Hòa thượng bất ngờ nhưng rồi cười độ lượng:

 

– Vì sao ông muốn xuất gia?

 

– Dạ, đời là bể khổ, con muốn gỉai thoát để hết khổ.

 

– Nói bậy! Ai bảo đời khổ? Đời vui lắm, có tiền, có rượu ngon, gái đẹp, thức ăn mỹ vị...Ở trong chùa mới khổ, chùa hổng có những món ấy đâu!

 

– Dạ, đời khổ thật mà, vì những món ấy mới khổ, hơn nữa lòng người đa trá, quan trường nham hiểm, vợ con nợ nần, sắc dục cạm bẫy… chỉ có chốn già lam mới bình an thanh tịnh.

 

– Trong chùa cơm hẩm áo thô, vào ra đơn độc, thức khuya dậy sớm, bất tác bất thực, kham nhẫn nhịn nhục, rước khổ thiên hạ, thí lạc cho đời… toàn đi ngược lại với người đời cả!

 

– Dạ, lòng con đã quyết, những cái khó khăn ấy không làm con nhụt chí đâu!

 

– Cứ cho là ông chịu được những điều ấy, nhưng ông xuất gia để cầu gì?

 

– Dạ, cầu giác ngộ.

 

– Chùa chẳng có gì ngộ ngộ để ông vác đâu.

 

– Cầu hầu cận Phật, gần tổ.

 

– Vậy thì càng không được! Làm Phật, làm tổ khổ lắm, ngày ngày ngồi đó chịu trận chúng đến cầu xin đủ thứ nào là tài lộc, thăng quan tiến chức, gia đạo bình an, con cháu đỗ đạt, thậm chí cầu sanh con trai...Nếu ngẫu nhiên mà được thì không sao, bằng như không vừa ý thì chúng lại đổ vấy tại Phật, tại tổ không linh. Khổ lắm, kham không nổi đâu!

 

– Dạ, tại người mê mới cầu như thế nhưng Phật, tổ từ bi đâu có trách.

 

– Ông nói cũng có lý, Phật, tổ không trách. Chúng lại làm những việc ma nhưng cứ đổ riệt cho Phật, Bồ tát gọi là Phật sự. Chúng lợi dụng Phật, bồ tát tổ chức xin xăm, bói toán, cúng sao, giải hạn, trục vong, mở ngải… để thu tiền, làm cho thiên hạ hiểu sai về Phật. Chúng bôi nhọ như thế đấy, làm Phật, làm tổ khổ lắm! Chưa hết đâu, chúng tàn hại thiên nhiên, phá rừng bạt núi dựng chùa to như tử cấm thành để làm du lịch thu tiền mà chúng bảo là Phật sự! Chúng đăng đàn nói nhảm linh tinh, phò thế lực quan quyền thế tục… đủ hết các trò mà ngày xưa ma vương ba tuần còn chưa dám làm. Chúng bôi gio trát trấu lên mặt Phật, chúng phỉ báng như thế mà vẫn phải nhẫn nại từ bi thương chúng vô minh. Làm Phật, làm tổ khổ lắm! Ngày xưa Phật buông hết xuống chỉ còn tam y nhất bát, nay chúng vơ hết vào mình, ôm đủ thứ mà miệng thì cứ oang oang bảo Phật sự. Ông thử nhìn lên bàn thờ mà xem: Đèn, nhang, hoa, quả… chúng dí sát vào tượng Phật, bày biện tùm lum, chúng sợ Phật không thấy phẩm vật nên hổng linh chăng? Ông thử đi một vòng các chùa thì biết, gom tiền bá tánh đi rước sư tử Tàu, La Hán Tàu, pháp khí Đài Loan… chưng la liệt, chẳng biết chưng vậy để làm chi? Vừa hao tài tốn của vừa làm cho người mê. Chúng làm bậy nhưng rồi chỉ có mỗi Phật, bồ tát chịu trận thay. Suốt ngày chúng réo Phật, làm Phật, làm Bồ tát khổ lắm!

 

Hòa thượng nói thế nào mỗ cũng vẫn khăng xin xuất gia cho bằng được, cuối cùng hòa thượng cũng cho mỗ xuất gia để tìm đường giải thoát:

 

– Được rồi, ông muốn tránh khổ của đời để nhận cái khổ của chùa thì tui cũng chìu ông, tuy nhiên sau này kham hổng nổi thì đừng đổ thừa tui. Tui đã nói trước rồi đấy, làm Phật làm tổ khổ lắm!

 

Thế rồi hòa thượng tập hợp chúng lại làm lễ cạo đầu cho mỗ xuất gia. Những ngày đầu mỗ lâng lâng vui sướng, hùng tâm tráng khí bốc cao như núi, lòng nhẹ nhõm rỗng rang như mây bay. Từ nay không còn thủ thế ở chốn quan trường, chẳng phải nhức đầu vì vợ con, đời tu hành thong dong tự tại. Mỗ hăng hái làm cái này cái kia, tập đi đứng chậm rãi, nói năng nhỏ nhẹ từ tốn, học giáo lý, học giới luât… Tuy hăng hái như vậy nhưng khổ một nỗi bản tánh xưa nay ở đời rất hùng hổ, quen thị uy, nóng nảy giờ đè nén xuống rất là khó chịu, nhiều lúc đang ngồi thiền mà nó cứ chực chờ bung trào nổ tung. Mỗ ngồi trên bồ đoàn mà trong lòng bí bách như đang có cơn lũ dữ bị chặn lại. Những ngày đầu, khi cơn hưng phấn còn cao thì không sao, sau đó thì bắt đầu nếm trải với bữa cơm toàn rau với đậu, mỗ cố nuốt nhưng sao thấy nhạt nhẽo khô khan quá. Trong tâm mỗ nổi lên cơn thèm miếng sườn, lát cá, ly bia… Mỗ phải trấn tĩnh, thực hiện chánh niệm:” Giờ mình đã xuất gia, phải hướng thượng, phải từ bỏ những cái tầm thường ấy để mà giải thoát”.

 

Một đêm kia mỗ ngủ không được, bụng cồn cào vì đói, ngặt nỗi ở chùa đâu thể xuống bếp ăn vụng, vả lại bữa cơm chiều cũng tém gọn sạch sẽ rồi, chẳng còn gì cả. Mỗ thầm nghĩ: ”Phải chi giờ này ở nhà, mình chạy ra quán quất một bụng cho đã đời”. Mỗ trằn trọc không sao ngủ được dù đã cố gắng niệm Phật thầm, chú mục vào hơi thở… nhưng chỉ được một tí là lòng lại dậy sóng. Mỗ nhớ những ngày tháng ăn nhậu tới bến, hết tăng một gầy tăng hai, tăng ba hát karaoke, mát xa mát trời ông địa luôn. Những cô tiếp viên trẻ đẹp chìu mỗ tới bến lên đỉnh vu sơn. Mỗ trở mình, chiếc giường chùa cứng quá, không có chăn ấm nệm êm làm cho thân thể mỗ đau và mỏi nhừ, giấc ngủ chập chờn, đến bốn giờ sáng thì chuông thức chúng đã vang lên. Mỗ buộc lòng bò dậy theo chúng để vệ sinh  rồi công phu buổi sớm. Ngồi lim dim quán thân bất tịnh, mỗ thấy mấy cô tiếp viên đẹp quá, thơm quá có chi bất tịnh đâu. Quán thọ là khổ, chao ôi khổ thật, cơm hẩm áo thô, giường cứng, ngồi tê chân, đau lưng, ngủ không đẫy giấc… Còn thọ mấy em tiếp viên thì sướng quá, êm dịu, mướt mát đâu có gì khổ đâu! Quán lý vô thường, đành rằng là thế, vì vô thường nên hãy hưởng cái sướng đi, khi nào vô thường đến hẵng hay, tội gì chịu khổ rồi khi vô thường đến lại hối tiếc. Quán pháp vô ngã, mỗ sanh hoài nghi, của cải nhà cửa, tài sản sờ sờ ra đó sao là vô ngã? Có của thì nhất hô bá ứng, muốn gì được nấy cơ mà!

 

Thế là mỗ xuất gia được hai tháng, phải thú thật hai tháng này đối với mỗ như hai thế kỷ. Mỗi lần ngồi thiền nó bức bối khó chịu, gối đau, chân tê, lưng nhức, tâm thần lờ đờ ngủ gật ngủ gà, trong lòng mỗ ngổn ngang tâm sự, những tưởng thoát khổ nào ngờ còn khổ hơn. Trước khi xuất gia cứ ngỡ vào chùa là giải thoát giờ mới thấy giải thế nào cũng không thoát. Mỗ nhớ lời hòa thượng khi đến xin xuất gia:” vào chùa khổ lắm, làm Phật làm tổ khổ lắm, kham không nổi đâu!”. Ngày chưa xuất gia, hễ mỗi khi không vừa ý thì lập tức la hét, chửi mắng, thậm chí đập phá hay thượng cẳng chân hạ cẳng tay cho hả giận, giờ phải tịnh khẩu, bó thân thật là khổ! Mỗ ngước nhìn tượng Phật tổ trên bàn thờ mà lòng hoang mang, Mỗ lâm râm cầu khấn Phật Bồ tát phù hộ giải thoát.

 

Một ngày đầu của tháng thứ ba, sau khi xong buổi điểm tâm sáng, mọi người bắt đầu ra vườn chấp tác, riêng mỗ thì hòa thượng giữ lại:

 

– Đã thấy có gì ngộ ngộ để vác chưa? Đã giải nhưng không thoát phải không? Thôi hãy về đi! Ta giải thoát cho ông đấy!

 

Thì ra hòa thượng biết hết cả tâm sự trong lòng mỗ, hòa thượng đọc được từng ý nghĩ trong đầu mỗ, hòa thượng biết mỗ khổ thân và cả khổ tâm. Nghe hòa thượng nói thế, lòng mỗ vui như mở hội, chợt thấy mình như chim sổ lồng, như cá ra sông, như tù nhân được thả cửa. Mỗ vội vàng quỳ xuống tạ ơn hòa thượng từ bi giải thoát cho, rồi lập tức xuống núi trở về nhà.

 

– Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 02/22)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.