Hôm nay,  

Đồng Nghiệp Dị Chủng

11/03/202209:44:00(Xem: 2970)

Truyện ngắn

worker

 

Ông anh họ, là nhân viên ngân hàng ở Việt Nam, gật gù:

 

– Vậy ra, Thi làm ở phòng Tham Mưu Tín Dụng Quốc Tế.

 

Tôi giật bắn cả người:

 

– Úi trời trời, nghe sao mà dao to búa lớn quá vậy. Việc của em đơn giản lắm, săm soi mấy con số trong báo cáo tài chánh của con nợ, vạch lá tìm sâu. Rồi viết lời đề nghị, nên cho vay bao nhiêu. Hội đồng quản trị của ngân hàng quyết định, chớ em đâu có quyền hạn gì.

 

Ông anh nghiêm giọng:

 

– Mấy lời bàn ra, bàn vô đó, tiền không! Chẳng biết ở Tây thì sao, chứ ở ta, mấy ghế này, phúc lợi từ cửa sau nhiều lắm, xây cửa, xây nhà mấy hồi.                         

 

Tôi ngồi ở “ghế” này mấy năm. Bổng lộc đến bằng cửa trước đàng hoàng, ghi tên tôi là người nhận ngay ngắn. Có lịch các loại, hoặc dao rọc thư, hoặc khối thủy tinh, thẻ kim loại để chận giấy. Cứ đà này, tôi bám trụ ở đây mãn kiếp, vẫn chưa đủ vật liệu xây nhà. Thật ra, tôi chẳng hề mơ màng đến những đặc quyền, đặc lợi của công việc. Nhưng đôi lúc, giữa những tám tiếng ở văn phòng, tôi hay có những ý nghĩ rất... khoa học giả tưởng. Chẳng hạn như Diedrich không phải từ Hamburg, tít tận bắc Đức, mà là Đình, dân Hà Nội. Chẳng hạn như Viktor, chẳng phải là dân Franfurt ở trung Đức mà là Vinh, chàng trai xứ Huế. Ngồi đối diện tôi là Ralph, người Bavarian duy nhất trong nhóm. Khi ông trưởng phòng xếp chỗ ngồi, tôi than thầm, xúi quảy thiệt, boss đặt đâu phải ngồi đó. Chớ nghe nói, dân miền nam Đức khó chịu, kỳ thị chủng tộc lắm. Ban đầu, tôi kính nhi viễn chi. Dần dà, tôi thấy thiên hạ dường như gieo tiếng ác cho người dân Bavarian. Ralph rất dễ thương, đã nhiều lần “quạt” thẳng tay những ai dám xách mé hình thức và nội dung da vàng, mũi tẹt của tôi. Trong văn phòng, Ralph nói tiếng Đức tiêu chuẩn... quốc tế. Nhưng khi nói chuyện với người nhà, Ralph chuyển “tông” qua tiếng địa phương. Tôi nghe, tiếng được, tiếng mất. Tưởng tượng như nghe một người Việt miền Tây nói, “bắt con cá gô bỏ trong cái gổ nó kêu gột gột”. Tôi chớp vội vài ba chữ hiểu lõm bõm, láo lếu nhại giọng Ralph. Ralph không chấp nê tôi, chửi cha không bằng pha tiếng, mà còn chỉ cho tôi dăm ba câu thổ ngữ thứ thiệt của nhà quê Bavaria. Lâu lâu, tôi trả bài, cả đám có dịp cười rân. Tôi nghĩ, nếu nói tiếng Việt với Ralph, sẽ xưng hô ông tui, chớ không lẽ mày tao sao. Có lần Ralph kể về một chuyến nghỉ hè ở Úc và Tân Tây Lan. Ấn tượng sâu sắc nhất đối với Ralph là Tân Tây Lan không có thú dữ. Tôi trề môi, tỏ vẻ nghi ngờ:                              

 

– Thiệt không? Tui chưa đi Tân Tây Lan lần nào. Nhưng tui chắc chắn bên đó có thú dữ.

 

Ralph giọng chắc nịch:

 

– Đã không biết mà còn bày đặt hỏi vặn vẹo. Đánh cá một cây kem nhe. Tôi sẽ đưa sách nói về thú vật xứ đó cho Thi coi.

 

Tôi nhún vai rất “lạnh”.

 

– Khỏi cần, ông đưa cho tui coi lại xấp hình ông chụp bên đó đi.

 

Ralph đẩy xấp hình qua:

 

– Đây, người đẹp cứ tự nhiên. Trưa nay đi mua kem, nộp cho tôi.

 

– Đừng có mơ với mộng!

 

Tôi chùn mũi, rút tấm hình Ralph chụp giữa phố, thảy ra trước mặt Ralph. Tôi chỉ mấy cô gái trong hình, nhướng mày hỏi:

 

– Đây là gì hả? Không phải thú dữ sao! Quê nhà tui, quý ông khơi khơi gọi tụi tui là cọp, là sư tử.

 

Ralph không nín cười được:

 

– Okay, chịu thua. Vậy chớ Thi là cọp hay sư tử?

 

– Vừa cọp, vừa sư tử mà còn hơn nữa...

 

Tôi bỏ dở câu nói, nhớ đến bài hát Ta Yêu Em Lầm Lỡ của nhạc sĩ Phạm Duy thuở nào. Ai đời, đường đường một đấng nam nhi, hậu duệ của Lạc Long Quân, mà tự xưng là loài cỏ cây man rợ, loài ma quái ngu si. Rồi rền rĩ ta yêu em lầm lỡ, bây giờ đường nào đi. Ta hỏi lẩm cẩm xong, ta dài giọng chì chiết em yêu ma quỷ dữ đã đến gieo sầu đau. Vừa phải thôi chớ, em nghe mà sôi cả ruột gan, ta rặt một tuồng đem than gắp bỏ tay người.

 

– Sao, là beo, báo hay gấu?

 

Tiếng Ralph kéo tôi khỏi cơn nóng mặt giùm cho bao nhiêu con cháu Âu Cơ. Tôi rùn vai:

 

– Là gì nữa hả? Chắc tui cần cả nửa ngày để cắt nghĩa. Mà thôi! Tui còn cả đống việc. Lúc khác nghen.

 

Nói vậy, chớ tôi nghĩ, Ralph chẳng bao giờ có thể hiểu được. Tiếng Đức của tôi, dù được rèn luyện qua nhiều năm trung học và đại học với người bản xứ, cộng thêm dạn dày kinh nghiệm thông ngôn. Nhưng tôi làm sao cắt nghĩa Ta yêu em vất vả, ôi! lần cuối lần đầu, em là cành gai sắc cho thịt nát xương đau... Tôi có đanh đá với Ralph rằng, người khôn nói với người… kia bực mình. Chắc Ralph cũng chẳng thấm, để mắng tôi điêu ngoa, chua chanh, chát khế.

 

Ralph kể, khi ông trưởng phòng dẫn tôi đến nhận việc, Ralph nghĩ, tôi là người Hoa, tức sẽ gặp vấn đề với chữ R. Tôi cười lục khục:

 

– Ông yên tâm. Tui không gọi ông là Lalph đâu. Nhưng cái chữ L cắc cớ ở giữa lại làm tui tréo cả lưỡi. Nếu ông cho phép tui gọi ông là Raph, chắc tui sẽ tăng tuổi thọ thêm vài năm.

 

– Ừ, gọi sao cũng được. Hy vọng Thi thông cảm. Trong con mắt Âu châu của chúng tôi, người Á châu nào cũng giống nhau.

 

Tôi đâu thèm để bụng chuyện lặt vặt này. Tại, nhầm lẫn như vậy đã xảy ra nhiều lần. Mà tôi rầu nhất, là lần người đồng hương nhầm. Trong hội Tết, khi mấy cô bé Bắc kỳ đang quây quanh chồng tôi hỏi chuyện, chồng tôi chỉ tôi:

 

– Bà xã anh tới rồi đây. Mấy em thắc mắc gì, thì cứ hỏi chị đi nhe.

 

Một cô bé láu táu:

 

– Chị chắc là người Trung?

 

Tôi lật đật mừng rỡ. Thường thì, trời có tối như đêm ba mươi, nghe giọng tôi cũng biết tôi từ nơi quê hương em nghèo lắm ai ơi. Nhưng đằng này, tôi đã mở miệng đâu. Mà cô bé nhận ra, chắc trông tôi ngoan hiền như mấy o Huế chính hiệu chớ gì. Chao ơi, sao hồi giờ, bao người nhận ra điều này, mà chẳng nghe ai “thành thật” góp ý cho tôi vui. Tôi chưa kịp lên tiếng để xác nhận cho cô bé, là cô có nhận xét rất chi chính xác, thì cô khác phản đối:

 

– Này, đằng ấy nói thế nào đấy chứ. Mắt chị ấy không xếch, mà lại to nữa.

 

Nếu hơi “chậm tiêu” như thường lệ, chắc tôi vội lên tiếng đính chính rằng, cô bé ơi, có lẽ tại cô bé chưa đặt chân lên đất Thần Kinh, nên cô có suy nghĩ sai lạc về đôi cửa sổ linh hồn của người xứ đó. May quá, bỗng nhiên, trong đầu óc rù rờ của tôi sáng lên ánh chớp. Trung đây là Trung Quốc nằm phía bắc của Cao Bằng. Chứ không phải là Trung Việt, nằm ở phía nam Hải Phòng. Tôi nào trách chi lời con trẻ nói thiệt, tưởng nhầm tôi là thím xẩm. Cho chừa cái tật xí xọn, mặc áo chẽn nút vải. Chỉ ngậm mà nghe thôi, đã đau nhoi nhói ở tâm thất trái hết mấy chục phút.

 

Vào hãng, như thường lệ, Ralph chào “Hi”. Tôi muốn ghẹo, giả đò hỏi:

 

– Ông nói Hai với ai đó?

 

– Với Thi. Tại sao?

 

– Tại tui không phải Hai mà là Năm. Biết chưa! Tui là con thứ năm trong gia đình, hai là Zweite, mà tui là Fünfte, là Năm.

 

– Trời đất, tôi có biết nói tiếng Việt hồi nào đâu. Tôi là người Đức mà.

 

– A, vậy ý ông nói tui là cá mập. (Hai: tiếng Đức có nghĩa là cá mập) 

                               

– Aha, tôi đâu chào bằng tiếng Đức. Tôi không nghĩ đến điều này. Nhưng bây giờ tôi thấy Thi đúng là cá mập. Ralph cười cười.

 

Từ đó, Ralph hay gọi tôi là Hai hoặc Sharky. Giữa hai bàn chúng tôi, gần hai màn ảnh computer to tướng, tôi trưng mấy chậu cây hết đất sống ở nhà tôi, một chậu long tu, một chậu thủy trúc và cây lan hồ điệp chỉ toàn lá. Có lần, tôi đang chăm chú truy cập thông tin trên liên mạng, tay điều khiển con chuột, tay kia cầm hột xí muội nhâm nhi. Bất chợt, tôi có cảm tưởng bị “theo dõi”. Ngước lên, nhìn qua mấy chậu cây, Ralph đang quan sát tôi. Bị bắt gặp, Ralph lúng túng:

 

– Thấy Thi đang ăn say sưa món gì đó. Tôi nhìn nãy giờ vẫn chưa nhận ra.

 

Tôi phịa:

 

– Đây là một món trân châu. Vừa ngon, vừa bổ.

 

Tôi lạng ghế qua hộc tủ, lấy hộp kẹo ho đựng xí muội. Mở nắp hộp, tôi chồm qua bàn:

 

– Mời ông ăn thử miếng ngon quê tui.

 

– Cám ơn Thi.

 

Ralph nhón một hột xí muội, cho vào miệng. Tôi không kịp hướng dẫn cách ăn, chưa kịp tưởng tượng phản ứng của Ralph. Mặt Ralph nhăn quéo, quýnh quíu lấy khăn giấy, nhả hột xí muội vào khăn. Ralph như chưa hoàn hồn, lắp bắp:

 

– Xin lỗi, xin lỗi Thi nhe. Vị của món này lạ quá. Tôi, tôi không vứt đâu. Lát nữa tôi sẽ ăn, và ăn hết.

 

– Ông biết không, ăn chầm chậm thưởng thức. Chứ ông thảy cả hột vào miệng như ăn sô–  cô – la là hỏng.

 

Tôi nói từng chữ, cố giữ cho mình đừng cười rú lên. Chớ Ralph vừa hoảng sợ, lại vừa cảm thấy bị quê mà ngã lăn ra, tôi mang tội ngộ sát, hay cố sát chứ chẳng chơi.

 

Ôi, bây giờ lên lớp cho Ralph về nghệ thuật ẩm thực của lứa tuổi thích ô mai, chắc như đàn gảy tai trâu. Tôi biết tỏng Ralph chờ tôi quay đi, lén vứt hột xí muội vô thùng rác. Tôi tội nghiệp cho số phận hẩm hiu của hột xí muội... trao thân nhằm tướng cướp.

 

Ralph xúi... khôn tôi nhiều chuyện. Tôi nhận được thư báo tặng cổ phiếu của ngân hàng, phần thưởng đồng đều cho nhân viên còn trong mức lương cố định. Tôi nói, sẽ bán để đãi gia đình tôi vài bữa đại tiệc. Hỏi Ralph sẽ làm gì với mớ cổ phiếu đó. Ralph sửa sửa gọng kính:

 

– Tôi lãnh lương ngoài mức. Nên chờ đến tháng ba, khi có kết quả tổng kết tài chánh của ngân hàng, mới có tiền thưởng.

 

Buổi trưa khi đi ăn chung, Ralph rành rẽ chỉ dẫn cho tôi nhiều lập luận để nói chuyện với xếp, đòi lên lương. Tôi rất ngại nói chuyện tiền bạc:

 

– Ralph à, tui cảm thấy hài lòng với lương bổng hiện tại. So với đồng nghiệp cùng phòng, tôi là người đến sau rất lâu.

 

– Thi nghĩ như vậy là sai. Thi cũng nhận công việc tương tự như những người khác. Những đòi hỏi trong việc làm buộc phải có thù lao tương xứng. Nếu Thi không chu toàn trách nhiệm, thì xếp đã “bứng” Thi đi rồi.

 

Tôi hoãn binh:

 

– Ờ, ờ, thong thả tui lựa lời nói với xếp.

 

– Thong thả là bao giờ. Chắc Thi không đủ tự tin để nói chuyện chớ gì?

 

Tôi sửng cồ:

 

– Còn lâu à. Ông chống mắt coi nhe. Nội trong tuần tui sẽ lo xong chuyện này.

 

Có lẽ do câu nói khích của Ralph, tôi đùng đùng gặp boss, dõng dạc, “Thưa xếp, tôi có thể nói thẳng với ông...” Khi nhận được thư báo tăng lương từ phòng nhân sự, tôi vui, vì có thêm xu hào mỗi tháng trong trương mục. Nhưng có lẽ vui hơn, vì thấy mình đã biết… mở miệng. Tôi kể cho Ralph nghe, rồi đùa:

 

– Vậy là từ nay gia đình tui sẽ ăn tôm gỗ.

 

Ralph ngây thơ, tưởng đó là loại tôm, như tôm sú, tôm thẻ, tôm hùm...

 

– Tôi không rành về hải sản, nhưng đoán tôm gỗ ngon lắm.

 

Tôi rõ ràng từng chữ:

 

– Không phải hải sản, mà là mộc sản. Tôm bằng gỗ mà.

 

Ralph nói như reo:

 

– Tôi đoán, sắp được nghe một câu chuyện lý thú.

 

Tôi đều đều giọng văn tả cảnh:

 

– Ừ, hồi giờ tụi tui thích ăn đồ biển lắm, mà không có tiền mua. Cho nên tui sắm con cá gỗ. Mỗi bữa dọn lên bàn, ngày nào cũng có cảm tưởng thưởng thức hải vị. Bây giờ lên lương, ăn món sang hơn, ăn tôm gỗ đó.

 

Ralph xuýt xoa:

 

– Chúa ôi! Tôi thấy người Việt có óc khôi hài dễ thương ghê.

 

Tôi ngoe ngoảy:

 

– Ông đừng có vơ đũa cả nắm nghe. Có tới mấy chục triệu người Việt. Ông mới nghe một mình tui nói, đã vội vàng nhận xét này kia.

 

– Thi làm tôi tò mò muốn biết về quê hương của Thi lắm. Kỳ nghỉ tới, có lẽ tôi sẽ đến Việt Nam, để coi thú dữ ở đó... dữ chừng nào.

 

Tôi thấy vui vui. Ralph đâu đến nỗi “u mê” như tôi vẫn thỉnh thoảng hồ đồ tuyên bố.                      Ralph đi ngang, gõ gõ nhẹ bàn tôi:

 

– Thi à! Ngồi thẳng lưng lên. Khòm như vậy hại cột sống đó.

 

Tôi sửa thế ngồi, ậm ừ, mắt vẫn không rời màn ảnh, tay vẫn nhấn bàn phím rào rào. Hồi xưa, tôi đã có thời hài lòng với cái tật khòm của mình. Tại có người “chôm” đâu đó câu thơ Dáng đứng lưng còm, dễ thương dữ dội!  Cho tôi lô... độc đắc. Bây giờ, lô độc đắc xài hết rồi, tôi đôi lúc muốn “sửa lưng” mình, mà coi bộ tật thành mãn tính. Tôi đành tự trao giải an ủi, mình có tật, chắc có tài. Tật thì rành rành đó, mà tài nằm đâu kỹ quá, tìm hoài chẳng thấy. Ờ, ờ, nếu bây giờ người ta có hỏi Vẫn tóc ngang vai, vẫn dáng đứng lưng còm? Thì tôi sẽ trả lời rằng...

 

– Thi à, Thi nói bà Krone thủ kho bút chỉ văn phòng đặt mua loại nệm ghế đặc biệt để ngồi cho đúng.

 

Vừa nói, Ralph vừa đưa cuốn Hướng Dẫn Chăm Sóc Sức Khỏe Cho Những Người Làm Việc Văn Phòng. Khỉ thiệt, Ralph lại “phá đám”.

 

– Ừ, ừ...

 

Tôi đang tiếc phút mơ màng, để tâm hồn treo ngược ở cành cây, nên không thấy Ralph đang nhìn tôi chờ đợi lời cám ơn.

 

Thứ Hai vào, tôi còn mệt đừ vì cuối tuần khách khứa. Lâu lắm rồi, rủ rê được bạn bè đến chơi tán nhảm. Vui quá trời, nhớ lại, tôi cười tủm tỉm. Ralph gởi email cho tôi, “Trưa nay đi ăn với tôi nghe”. Tôi trả lời trong email. “Hẹn hôm khác. Cuối tuần tui đã ăn đủ cho cả tháng rồi”. Buồn cười, ngồi đối diện nhau, mà thỉnh thoảng, tụi tôi vẫn thư qua lại vèo vèo. Ralph lại gởi email, “Tôi cần nghe ý kiến của Thi. Ăn trưa nhe”. Chà, hấp dẫn đây, được làm quân sư quạt mo. Tôi đứng dậy, chỉ vào đồng hồ, hẹn giờ. Chẳng biết chuyện gì, mà mặt Ralph giống đưa đám suốt bữa ăn. Lúc qua bên cafeteria, tôi nhắc, nói giọng Bavarian:

 

– Ông làm ơn dẹp cái bản mặt bảy ngày trời mưa của ông đi.

 

Giọng Ralph rầu rĩ:

 

– Ừ, tôi cố gắng lắm, mà vui không nổi. Tôi tìm được đúng người của đời tôi. Nhưng sai thời điểm. Tôi đang buồn muốn chết.

 

Tôi ráng nín cười. Chu choa ơi, người Đức mà bày đặt tương–  tư– thổn– thức–  thất– tình–  toan–  tự – tử... Chuyện lạ bốn phương đó chứ. Tôi dịch đại khái câu thơ cà... muối cho Ralph nghe. Chung vui anh gởi lời mừng,/ Mai kia ly dị xin đừng quên anh.

 

Giọng Ralph ráo hoảnh:

 

– Tôi đâu có phải chờ. Bettina ly dị rồi.

 

Tôi tỏ vẻ hiểu chuyện:

 

– À, vậy, cô ấy không yêu ông?

 

– Có, có chứ!

 

– Ủa, vấn đề ở đâu? Thôi, tui không biết sao nữa. Hay là bây giờ ông lây cái “văn hóa” của tui.

 

Lâu lâu nghệch mặt buồn một bữa, mà chẳng có lý do gì rõ ràng.

 

Ralph chẳng thèm để ý đến cái giọng xóc óc của tôi:

 

– Tôi rủ Bettina dọn về ở chung. Nhưng nàng không chịu. Ban đầu nói, cần thời gian suy nghĩ...

 

Tôi sốt ruột, không chờ Ralph dứt lời:

 

– Thì cũng phải. Chuyện sống chung, phải cân nhắc kỹ càng. Ông thương người ta, phải tập kiên nhẫn chứ.

 

– Tại Thi không biết đó. Cả năm nay rồi, cuối tuần nào tôi cũng chạy mấy trăm cây số thăm nàng.

 

Trời, trời, tưởng gì. Tự thuở khai thiên lập địa, con Rồng cháu Tiên chúng tôi, khi yêu nhau, bất kể mấy núi, mấy sông, mấy đèo cách trở, có ai nề hà gì đâu.

 

– Thì ông chạy thêm một năm nữa, hay miết cho đến bao giờ cô ấy xiêu lòng thì thôi.

 

Đang ủ rũ, Ralph bật cười:

 

– Bộ Thi tính trù cho tôi như vậy cho đến khi về hưu hay sao? Mà đến lúc đó cũng chẳng có gì thay đổi. Mới đây nàng nói với tôi, nàng rất thương tôi, nhưng không muốn bước vào một quan hệ nào nữa. Có lẽ, những sóng gió trong hôn nhân vừa qua đã làm nàng ngại.

 

– Ông còn muốn gì nữa. Ông yêu và được yêu, hạnh phúc quá trời rồi.

 

– Nhưng đâu có sống chung với nhau đâu.

 

Tôi nghiêm chỉnh:

 

– Thì ông hẹn với cô ấy kiếp sau.

 

Ralph quay qua hẳn nhìn tôi:

 

– Thi không giỡn đó chứ. Thể nào Thi sẽ hét toáng rằng, người Âu châu chúng tôi hời hợt, cạn cợt. Nhưng tôi nói thật, tôi thực tế lắm. Những gì đang hiện hữu trước mắt, mới đáng kể. Kiếp trước, kiếp sau gì đối với tôi chỉ đơn thuần là những từ, những ngữ mà thôi.

 

*                                                                       

 

Tôi nhìn bâng quơ qua cửa kiếng. Mùa thu đã đến tự hồi nào. Rừng cây trước cafeteria đổi sang màu vàng, cam, đỏ. Thấy gió lùa từng đám lá rơi lả tả, tôi tự nhủ, mùa này đi đứng, phải cẩn thận từng bước chân. Không phải tìm chiếc lá vàng để làm bằng chứng yêu ai. Mà lo đạp nhằm lá ướt, trơn trợt, dơ tay với thử trời cao thấp, có nước đi đo giường bệnh viện. Chao ơi, thời gian, không gian. Sao mà trật lất vầy trời. Nếu đứng đối diện tôi, bên tách cà phê thoang thoảng hương, không phải là Ralph, mà là một Tuấn, Tú, Tài, Toàn nào đó, một chàng trai nước Việt, chắc tôi sẽ ân cần khuyên nhủ Kiếp nào có yêu nhau thì xin tìm đến mai sau. Cứ ấp ủ, nâng niu niềm mơ ước như vậy, cũng đủ hạnh phúc cả kiếp này. Mà không chừng, vậy lại đẹp hơn, chứ lỡ... có thành đôi lứa chắc gì ta đã thoát ra đời khổ đau...

 

– Chiều nay họp tổng kết quý ba đó. Thôi, trở về văn phòng kẻo trễ.

 

Tiếng Ralph kéo tôi về thực tại. Còn mười lăm phút nữa là phải nhọc lòng, mệt óc với những bận rộn của... kiếp này. Tôi không còn đủ thì giờ để tâm sự với đồng nghiệp đồng chủng trong tưởng tượng rằng, tôi thương lắm câu ru, Tóc mai sợi vắn sợi dài, Lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm.

 

Hoàng Quân

 

Trích lời ca trong các nhạc phẩm:

Ta Yêu Em Lầm Lỡ của nhạc sĩ Phạm Duy

Tiếng Sông Hương của nhạc sĩ Phạm Đình Chương

Kiếp Nào Có Yêu Nhau của nhạc sĩ Phạm Duy

Bài Không Tên Trở Lại Cuối Cùng của nhạc sĩ Vũ Thành An

Tóc Mai Sợi Vắn Sợi Dài nhạc sĩ Phạm Duy

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.