Hôm nay,  

Đi Tìm Hạnh Phúc

08/04/202210:38:00(Xem: 3520)

Tùy bút

lac

Lạc, Tranh Thanh Châu.


Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc khi bạn cứ mải mê truy tìm hạnh phúc gồm có những gì. Bạn sẽ không bao giờ có được một đời sống đích thực nếu bạn cứ tiếp tục tra vấn ý nghĩa của chính đời sống ấy. (Albert Camus)

1.

Sống ở đời, hạnh phúc là thứ ai cũng thèm khát. Vì thế, người ta mải mê đi tìm. Tìm hoài, có kẻ thấy, có người không. Kẻ không tìm được hạnh phúc, thất vọng, buồn bã, chán chường. Kẻ tìm thấy được rồi, có khi không hoàn toàn thỏa mãn, hoặc có khi lại vuột tay đánh mất, cũng lại thất vọng, buồn bã, chán chường. Có lẽ, vì vậy mà người ta hay nói: đời là bể khổ. Khổ vì không tìm thấy hạnh phúc, không có hạnh phúc, không giữ được hạnh phúc.

Đau khổ và Hạnh phúc là hai mặt đối nghịch của một kiếp người. Chúng đi song song và chỉ đồng quy (?) khi kiếp người ấy chấm dứt.


Năm cũ qua, năm mới đến. Với chu kỳ thời gian tính bằng năm, mọi người, ai cũng được thêm một tuổi. Chính xác hơn, già thêm một tuổi. Cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc chốn trần gian bước thêm một bước về phía trước. Có hy vọng thêm gì không ở một cuộc đuổi bắt cái bóng chập chờn ấy sau những năm tháng mỏi mệt nặng nề trên vai “
đôi vầng nhật nguyệt?” Đường đã ngắn lại. Bạn đồng hành lần lượt bỏ cuộc. Mỗi ngày thức dậy, nghe tin một người bạn nào đó ở xa vừa "lên đường về nơi miên viễn (chiêm bao)". Những buồn phiền ấy chắc chẳng hứa hẹn gì hơn sự xuất hiện của bóng dáng hạnh phúc khi người ta vừa bước thêm một bước mệt mỏi trên con đường đi truy tìm.


Nhưng, có người bảo rằng, không nên tuyệt vọng như thế. Một nhà xã hội học gốc Trung hoa của trường Đại học Chicago đã công bố một công trình nghiên cứu về hạnh phúc và tuổi gìa, đáng được chúng ta chú ý tới, nhất là vào lúc mọi người đang choáng váng cộng thêm 1 vào số tuổi chỉ lớn dần ra mà không bao giờ nhỏ lại của mình. 


Dựa vào những nghiên cứu xã hội học và dữ liệu thống kê  bắt đầu từ năm 1972 cho đến năm 2004, công trình ấy kết luận rằng "tuổi già có người bạn đồng hành tay trong tay là hạnh phúc". Nhà nghiên cứu gốc Trung hoa này cũng dựa vào những dữ liệu thu thập được trong xã hội Mỹ để bác bỏ cái quan niệm lâu đời về người già rằng kèm theo với tuổi già là sự cô đơn, là cảm thức tự khép mình trong bốn bức tường của quá khứ, suy niệm, không hòa nhập với dòng sống xã hội đang từng ngày thay đổi. Bà cho rằng, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, mức sống ngày một nâng cao (1), người già (Mỹ) ngày nay đã trở nên "tích cực về mặt xã hội" hơn trước rất nhiều. Và hệ quả đương nhiên rất khích lệ. Tích cực hòa nhập vào xã hội giúp đẩy lùi những cảm thức tâm lý tiêu cực như chán chường, cô đơn, buồn bã. Mặt khác, với năm tháng người ta kinh qua, nhận thức về đời sống – qua kinh nghiệm – có phần thực tế hơn, và do đó, hình ảnh về đời sống trở nên dễ chịu hơn.(2)


Thế còn những thuộc tính không thể tránh khỏi của tuổi già, như đau ốm, bệnh tật, đau đớn vì sự mất mát của những người thân (chồng, vợ, bạn bè qua đời) thì sao? Theo các nhà nghiên cứu, các thuộc tính ấy vẫn tồn tại, nhưng ở mức độ dễ chấp nhận hơn, vì người già ngày nay đã biết chuẩn bị tâm tư đón nhận những bất hạnh không thể tránh khỏi ấy, và sự tích cực về mặt xã hội đã giúp họ từ bỏ thái độ chỉ ngồi một chỗ gậm nhấm những nỗi buồn, tự hờn trách mình về những thất bại. Thêm nữa, ngược hẳn lại với những ngày còn trẻ họ mong đợi quá nhiều từ đời sống, nên sự thất vọng chán chường thường tỷ lệ thuận với sự mong đợi ấy, bây giờ, bằng con mắt thực tế, họ không mong đợi nhiều lắm ở những gì cuộc sống mang lại. Kết quả, đời sống dường như có vẻ dễ chịu hơn. 


2.

Thế nhưng, hạnh phúc là gì? Làm sao để sống có hạnh phúc, cả khi người ta còn trẻ, chứ không phải đợi về già rồi mới được sống hạnh phúc?


Trên con đường đi truy tìm hạnh phúc cho chính bản thân mình, tôi đã "đau khổ" bị lọt vào mê cung của vô vàn định nghĩa khác hẳn nhau, của vô vàn phương cách sống hạnh phúc theo những quan niệm khác hẳn nhau, từ tôn giáo cho đến triết học, khoa học, từ phương Tây cho đến phương Đông, từ phức tạp cho đến giản dị, từ bậc cao nhân trí thức cho đến người ít học đơn sơ.


Đi tìm hạnh phúc, có nghĩa là "tưởng" rằng hạnh phúc phải ở một chỗ nào đó, thí dụ như: chùa chiền, nhà thờ, chợ búa, chỗ đông người, chỗ vắng người hay thậm chí trong sách vở, kinh kệ, xưa cũng như nay. Thế là tôi bị lạc đường. Lại thêm một nỗi đau khổ vì lạc đường. Có người bảo tôi hạnh phúc nằm ngay trong lòng mình. Hãy mở lòng ra thì sẽ thấy.
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt. Tôi nghe lời, mở thử lòng mình. Hạnh phúc vẫn biệt vô âm tín giữa mớ bòng bong trăm sự rối bời. Hay là lại tôi "suốt đời đau khổ" nên lòng tôi không có chỗ chứa cho hạnh phúc. Hay là tôi đã không nhận ra nó, khi nó thực sự hiện hữu trong lòng mình. 


Nói đi thì phải nói lại. Trong suốt cuộc đời 60 năm của tôi, cũng có nhiều lúc, nhiều khoảnh khắc, tôi cảm thấy mình thật hạnh phúc, nhất là những khi gia đình quây quần xum họp, khi những tiếng cười con trẻ cứ vang vang khắp nhà. Nhưng hạnh phúc ấy (nếu quả thật đó là hạnh phúc) không kéo dài. Xum họp rồi lại chia ly. Tôi không giữ được hạnh phúc (nếu quả thật tôi đã tìm thấy nó cho đời mình). 


Hạnh phúc không có một hình dáng. Điều ấy tôi có thể khẳng định. Nên, có lẽ, tìm sẽ không thấy. Vậy, hạnh phúc có thể là một cảm giác tâm linh, người ta chỉ cảm được cho riêng mình mà thôi. Và, có lẽ, chính vì thế mà cảm giác "
cảm thấy hạnh phúc" chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian, đến rồi lại đi. Tuy nhiên, để "cảm thấy hạnh phúc", và giữ được nó trong lòng mình dài lâu, tôi đọc được đâu đó có nhà tu hành bảo rằng phải giữ cho lòng thanh tịnh, phải diệt khổ, phải khoan dung, từ bi, phải có trí tuệ để không lầm đường lạc lối. Nhưng tôi là một người sống giữa đời sống, không thể tránh khỏi vương mang hệ lụy của đời, sở học không đủ cao để khỏi rơi vào tăm tối u mê, làm sao tôi đạt được tới mức "thân tâm thường an lạc" ấy để hưởng hạnh phúc. Chẳng lẽ số phận con người (như tôi) phải chịu đau khổ suốt đời vì không bao giờ thỏa mãn được những đòi hỏi quá cao xa ấy chăng?


Thế là, cuộc truy tìm hạnh phúc của tôi trở về khởi điểm với hai bàn tay trắng. Vừa đúng lúc để nghe những nhà khoa học danh giá bảo rằng từ nay trở đi (tức lúc bước vào năm mới với số tuổi nặng thêm một tuổi), tôi sẽ được "tay trong tay với nàng tiên hạnh phúc" sánh vai nhau bước trên con đường dẫn đến hoàng hôn đời mình, với những lý lẽ, nghe ra "khá thuyết phục".(3)


3.

http://files.chungta.com/Image.ashx/image=pjpeg/b868a8e308fa479fbcbb11a001264ff2-Hanh-phuc-3.jpg/Hanh-phuc-3.jpg


Thế rồi, như một sự ngẫu nhiên huyền hoặc, tôi xem được trong thế giới ảo (mạng Internet) một bức thư họa khá độc đáo. Trên cái nền thiên nhiên của cây cối, sông núi, trăng nước là hàng thư pháp viết thật đẹp hàng chữ:
Hạnh Phúc là có việc gì đó để Làm, người nào đó để Yêu, và có điều gì đó để Hy Vọng.(4)


Nội dung hàng chữ không có gì sâu sắc lắm. Rất giản dị, dễ hiểu.


Tôi soi bóng mình đằng sau hàng thư pháp. Hình như tôi cũng có một việc (thú vị) để làm. Công việc ấy đôi khi hành hạ tôi như hành hạ kẻ thù nhưng tôi không cảm thấy đau đớn (thú đau thương chăng?) Tôi cũng có hơn một người để yêu, cho đến hết đời. Điều này tôi có thể quả quyết mà không sợ mang tiếng "đại ngôn". Vì đó là gia đình tôi. Tôi cũng có một điều để hy vọng. Cái hy vọng ấy là thế hệ tương lai sẽ sáng sủa hơn thế hệ của tôi.


Nhìn kỹ lại, cái bóng ở đằng sau bức thư pháp, không phải chỉ là tôi, mà là của nhiều người lố nhố, khuôn mặt cùng mang những nét như nhau, cái nét của con người, cái nét của một kiếp nhân sinh trăm năm ngắn ngủi. 


Phải chăng đó là định nghĩa dễ hiểu, dễ đạt được nhất của hạnh phúc, mà ai cũng có thể thấy được, thực hiện được, kể cả những người trẻ tuổi, những người già, những người nghèo khó, những kẻ đau khổ?


Chú thích:


(1) Gỉa thuyết này có thể được củng cố với sự ra đời của Internet (thế giới nối mạng) và các loại máy computer mà giá cả phải chăng nên được nhiều người (già) ưa chuộng, và nhất là chiếc điện thọai thông minh mà hầu như ai cũng có. Ngày nay, không cần phải bước chân ra khỏi cửa nhà, người ta vẫn có những "họat động giao lưu xã hội" một cách tích cực. Hình thức nhóm thư điện tử (Mailgroups) – và mới nhất là mạng Facebook - là hai hình thức phổ biến nhất trong nhóm người (già) gốc Việt sống ở Mỹ (và các nước khác). Một người có thể cùng một lúc sinh họat trong nhóm những người bạn học cũ (trường cũ thầy xưa), nhóm cựu quân nhân xuất thân cùng trường đào tạo, hoặc cùng đơn vị phục vụ, hoặc cùng một trại cải tạo những người thuộc chế độ cũ, nhóm những người đồng hương, nhóm những người cùng hội (cao niên), v.v. Ngần ấy mối quan hệ xã hội đủ khiến một người (già), tuy không phải đi làm kiếm tiền, không bận rộn chăm sóc gia đình, vẫn không còn thì giờ ngồi không nghĩ ngợi vẩn vơ nữa. Thậm chí, có người còn cho rằng đây là những năm tháng tuyệt vời của đời mình. Không lo lắng hiểm nguy của lằn tên mũi đạn, không lo lắng bữa ăn cho gia đình, không sợ con cái lêu lổng hư hỏng, v.v.


(2) Công trình khảo cứu của giáo sư Yang Yang thuộc viện đại học Chicago dựa vào những cuộc khảo sát từ năm 1972 đến năm 2004 ở khắp nơi trên nước Mỹ. Có khoảng 1,500 cho đến gần 3,000 người đã được phỏng vấn trực tiếp, gồm những nhóm người khác nhau dựa trên phái tính, chủng tộc và tuổi tác. Qua lăng kính của quan niệm xem "
sự hiểu biết về hạnh phúc của con người là cốt lõi để đo lường phẩm chất của đời sống. Qua đó, người ta có thể lượng giá được sự thành tựu của một xã hội trong việc thỏa mãn những nhu cầu của thành viên trong xã hội đó", công trình đã đi đến kết luận khả quan,  rằng "người Mỹ càng già càng trở nên hạnh phúc hơn". Về chi tiết, cuộc nghiên cứu cho thấy người Mỹ gốc Phi châu ít hạnh phúc hơn người Mỹ trắng, đàn ông ít hạnh phúc hơn đàn bà, nhóm người thuộc thế hệ Babyboomers (sinh từ năm 1946 cho đến 1964) ít hạnh phúc hơn những thế hệ khác. (Nguồn: University of Chicago). 

Một nghiên cứu khác từ trung tâm nghiên cứu của Mayo Clinic cũng cho thấy kết quả tương tự. Theo đó, số người ở độ tuổi 60 và 70 cảm thấy thỏa mãn với đời sống giống như những người ở độ tuổi trẻ hơn. Nguyên nhân là do người lớn tuổi trở nên độ lượng hơn, dễ chấp nhận hơn những bất như ý, biết tỏ lòng biết ơn những gì do đời sống mang lại. Mặt khác, cũng theo nghiên cứu này, người có hạnh phúc thường sống lâu hơn, nên đã ảnh hưởng đến số liệu thu thập được trong khi tiến hành nghiên cứu. (Nguồn: Mayo Clinic).


(3) Vào thời điểm xem lại bài viết này lần cuối cùng trước khi cho vào tập tản văn có tên chung “Cõi Người”, một biến cố lớn trong đời tác giả đã xẩy đến. Đó là sự ra đi của người bạn đời mà khi viết bài “Đi tìm hạnh phúc”, tác giả đã mặc nhiên tin tưởng rằng mình sẽ ra khỏi đời này trước để tự mãn nguyện với ảo tưởng mình sẽ "tay trong tay với nàng tiên hạnh phúc" cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời. Thực tế đã giáng một đòn trí mạng vào cân não của tác giả, gây cảm tưởng hụt hẫng, khiến việc bàn luận về việc đi tìm hạnh phúc với tác giả đã có vẻ như lâm vào ngõ cụt. Dẫu sao, bài viết đã viết xong, tác giả ngậm ngùi gởi đến độc giả chỉ để đánh dấu một đoạn đời hạnh phúc đã qua, không bao giờ trở lại (03/2022). 


(4) Đây là bản dịch tiếng Việt một câu danh ngôn định nghĩa về hạnh phúc của nhà văn người Tô Cách Lan Allan K. Chalmers (1759-1834):
The three grand essentials of happiness are: something to do, someone to love, and something to hope for. Tôi đã cố gắng tìm danh tính vị tác giả bức thư pháp, nhưng vẫn chưa thành công.


T.Vấn

(Trích Cõi người, sắp xuất bản)








Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.