Hôm nay,  

Chị Quyên

14/04/202219:50:00(Xem: 4551)

Truyện ngắn -- Tháng Tư Đen


Viet_boat_people 

CHUYỆN ĐÊM MƯA BÃO

 

Nhóm bốn đứa chúng tôi, quen nhau trên đường vượt biên và thân thiết như chị em trong nhà ở trại tỵ nạn. Trong nhóm, chị Hảo chị Quyên bằng tuổi nhau, tức là cùng hơn tôi 2 tuổi, và đứa cuối cùng là nhỏ Hà thua tôi 2 tuổi.

 

Buổi chiều ngày ra khơi, được vài tiếng thì tàu chúng tôi bị mưa bão, máy thoát nước lại bị hư, nước bắt đầu tràn vào tàu, từ từ ngập qua mắt cá chân, chuyển lên gần đầu gối. Quyên là người đầu tiên và duy nhất, đề nghị họp gấp với một chú lớn tuổi trong tàu, rồi chị đứng lên hô hào các thanh niên đàn ông phải thay phiên nhau lên boong tát nước, nếu không tàu sẽ bị chìm trong gió bão. Giữa âm thanh hỗn độn của mưa gió, máy tàu, và tiếng kêu la, tiếng đọc kinh, mà giọng của chị Quyên đứng ngay cửa hầm tàu nối lên boong tàu vẫn sang sảng mạnh mẽ, nhắc nhở các thanh niên trên boong tát nước, trong khi tất cả phụ nữ còn lại, trong đó có tôi, lả người, ói mửa, tàn tạ te tua như cọng bún thiu, không còn sức để làm bất cứ việc gì. Quá nửa đêm, mưa càng to hơn, máy bơm nước vẫn chưa sửa được, mỗi lần tàu nghiêng ngả theo sóng, nước biển nước mưa tràn xuống hầm, cả đám phụ nữ con nít lại rú lên vì lạnh và hoảng sợ. Lúc này mọi hành lý đều được quăng xuống biển cho tàu nhẹ bớt. Chị Quyên vẫn đứng kêu gào, chỉ huy mọi việc trên boong. Thỉnh thoảng nghỉ giải lao cho bớt khan tiếng, chị lại đi xuống hầm ngồi với chúng tôi. Chị thì thầm vào tai tôi:

 

– Loan! Cái phao của mày đem theo đâu rồi? Mày có quăng xuống biển không đó?

 

Tôi run run thều thào, nói không ra hơi:

 

– Dạ… còn… đây, em giấu… dưới áo, khi nào tàu chìm… thì thổi lên thôi!

 

Rồi chị lại tiếp tục đi lên boong, trông coi việc tát nước. Một lát sau, chị trở lại, kéo bốn đứa chụm đầu lại, đưa cho tôi một khúc gỗ, dặn dò rất nghiêm nghị và bí mật:

 

– Tao tranh thủ gỡ được thanh gỗ này trên boong, nếu tàu chìm, thì mày với Hà ôm lấy khúc gỗ này, nghe chưa?

 

Tôi xúc động, rơm rớm nước mắt, rồi ngơ ngác hỏi:

 

– Thế còn chị và chị Hảo thì sao?

 

Bả trả lời tỉnh bơ:

 

– Thì tụi tao xài cái phao của mày chớ sao nữa! Bộ mày nghĩ mày còn sức thổi được cái phao à!!!

 

May mắn sao, tàu chúng tôi đã tai qua nạn khỏi, đúng nghĩa “sau cơn mưa trời lại sáng”, đến trưa hôm sau gió tạnh mây quang, đúng lúc máy bơm nước được sửa xong, và cuối cùng đưa chúng tôi qua bờ Thailand an toàn. Trong bốn năm trời ăn chung ngủ chung trong trại tỵ nạn, thỉnh thoảng chúng tôi ôn lại cái đêm mưa bão và nhắc lại chuyện chị Quyên “cho tôi khúc gỗ để lấy cái phao” là chị ấy cười giả lả, mắc cỡ:

 

– Quỷ sứ! Tụi bay nhớ dai như đỉa à!!

 

BỆNH “TÂM THẦN”

 

Vừa nhập trại Panatnikhom chưa được một tuần thì chị Quyên đã nhanh chóng tìm được văn phòng “Mental Health” (người tỵ nạn đọc là Man Tai Heo, ám chỉ những ai bị… dở người). Tôi hỏi chị:

 

– Nơi đó dành cho các nạn nhân trên đường vượt biển bị cướp bóc, hãm hiếp, hoảng loạn tinh thần, hoặc những ám ảnh khủng khiếp với chế độ cộng sản nơi quê nhà, chị đến đó khám làm gì?

 

– Thì chị cũng có những ám ảnh trên biển mà!

 

– Ủa, tàu mình chỉ bị mưa bão, có chút hãi hùng, nhưng không hề bị những vụ khác…

 

– Cái đêm thức trắng tát nước trên tàu vẫn làm chị nhớ đến và mất ngủ đó cưng!

 

– Em tưởng chị mạnh mẽ lắm chớ! Đứng cả đêm gào thét giữa biển, kêu gọi thanh niên tát nước, ai cũng ói mửa mật xanh mật vàng, mà chị có bị gì đâu nà!

 

– Thì lúc đó không còn lựa chọn nào khác, chị phải gồng mình, chẳng nghĩ suy gì hết á. Giờ nghĩ lại còn thấy ớn, té xuống biển là tiêu đời. Chị xin thề, không bao giờ đi vượt biên nữa …

 

Văn phòng này riêng biệt với Hospital của trại, do một bác sỹ thần kinh người Pháp, Dr. Hiegel phụ trách cùng với vài nhân viên Việt Nam. Cửa văn phòng luôn khép kín, hai cửa sổ luôn kéo rèm che, để bảo đảm sự riêng tư bệnh lý của bệnh nhân. Bệnh nhân phải uống thuốc ngay tại chỗ, nếu bệnh nhân không đến được thì sẽ có nhân viên mang thuốc đến tận nhà. Nàng Quyên hơi “nhõng nhẽo”, than nhức đầu, rồi nằm ở nhà. Người mang thuốc đến hàng ngày là anh Trinh, là người lanh lợi, vui vẻ, khéo ăn khéo nói. Khi anh đến, anh yêu cầu cả nhóm vẫn ở trong nhà, phụ anh ấy “tâm tình” với nàng Quyên, rồi chứng kiến anh ấy cho nàng uống thuốc.

 

Mấy “bà tám” chung lô nhà thuở ấy mỗi khi thấy anh Trinh đeo túi thuốc đến nhà, được chúng tôi niềm nở chào đón, rồi kéo nhau chui vào nhà, đóng cửa kín mít, một con kiến cũng không lọt qua được, bí bí mật mật như chuyện “mờ ám”. Mấy “bà tám” tò mò lắm, nhưng chỉ biết nhìn nhau bàn tán:

 

– Cô nào trong bốn cô đó bị “tâm thần” vậy cà?!

 

Nhưng đâu dễ cậy miệng được chúng tôi. Thời gian sau đó, chứng kiến những chiều mưa chúng tôi nằm nghêu ngao hát đủ các loại nhạc, hoặc một buổi đẹp trời nổi hứng đi chụp hình, hoặc nửa đêm khuya vắng kéo nhau đi lang thang trong trại không ngủ được vì nhớ nhà, nhớ quê hương, các bà tự động kết luận, như đinh đóng cột rằng:

 

– Cả bốn cô ấy đều… không bình thường, thì phải?!

 

Điều không ai ngờ là chị Quyên và anh Trinh yêu nhau. Chúng tôi tự hỏi, lần nào mang thuốc đến cũng có đủ mặt cả nhóm, vậy họ yêu nhau khi nào, lúc nào, chả lẽ trong thuốc có… bùa mê?!

 

YÊU HAY KHÔNG YÊU

 

Khi họ chính thức công khai yêu nhau thì chị Quyên cũng kết thúc chương trình chữa bệnh với văn phòng Mental Health (hoá ra thuốc… tình yêu hiệu nghiệm hơn!) Ngày nào anh cũng “đóng đô” nhà chúng tôi, có khi còn được mời ăn cơm chung, rồi ngồi tâm tình với chị ấy cho đến giới nghiêm mới ra về. Nhưng có điều, cứ vài ba bữa lại thấy chị khóc, vì anh nóng tính, hay la mắng chị, và nhất là rất gia trưởng. Đỉnh điểm là một ngày kia, anh nhờ chúng tôi nấu ăn làm giỗ cho ba anh. Bốn đứa cặm cụi nấu nướng, đến trưa anh ghé qua kiểm tra, có một món không vừa ý, anh ấy giận quá, bèn quay qua mắng chị Quyên, chị cúi đầu nước mắt rưng rưng. Tôi bực lắm, nếu đó không phải là buổi giỗ, không phải đến giờ khách đến đọc kinh, tôi dám… nổi cơn điên lắm á!

 

Đêm đó, bốn đứa nằm ngủ, chúng tôi xúm vào góp ý, tôi mạnh miệng nhất:

 

– Chẳng hiểu sao chị chưa bỏ anh ấy?! Em hả, em không đời nào lấy một người nóng nảy, gia trưởng như thế!

 

Góp ý vậy thôi, chớ chúng tôi đâu có quyền gì. Anh chị vẫn quen nhau, anh vẫn đến chơi nhà chúng tôi, vẫn được mời cơm, vẫn ra về khi còi giới nghiêm nổi lên, và dĩ nhiên, vẫn la mắng chị ấy, (có khi còn la nhiều hơn!)

 

Khoảng hai năm sau đó, trong một bữa cơm bốn đứa, chị cho biết, anh chị đã lo đầy đủ giấy tờ từ Việt Nam gửi qua, đã đem trình cho Cha xứ trại tỵ nạn, và sẽ có đám cưới tại trại do Cha Hậu và Cha Pierre đồng tế Thánh Lễ Hôn Phối. Chúng tôi lại… xúm vào chúc mừng chị, và tôi vẫn mạnh miệng nhất đám:

 

– Chị nè, mặc dù anh ấy tính tình nóng nảy, nhưng bù lại chị biết nhường nhịn, anh ấy tuy có gia trưởng, nhưng cơ bản là người tốt. Anh ấy còn biết xông xáo, năng động làm việc cho cộng đồng trại tỵ nạn, cũng đáng cho chị… nâng khăn sửa túi và gửi gắm cả cuộc đời.

 

Nghe tới đó, chị bỗng phì cười, văng cả cơm ra ngoài, rồi nhìn tôi cười sặc sụa:

 

– Mày tưởng tao quên những gì mày đã từng nói về anh ấy hay sao, con nỡm??

 

Tôi cũng đang nhai miếng canh bí đỏ, xuýt nữa cũng văng ra ngoài mâm. Tôi chu mỏ, liếc chị, và xài lại câu nói chị đã từng nói với tôi trong vụ “đưa miếng gỗ lấy cái phao”:

 

– Quỷ sứ! Nhớ dai như đỉa à!!

 

– Kim Loan

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.