Hôm nay,  

VỜ

25/04/202209:11:00(Xem: 3519)

Tạp bút

DanhGhen
Đánh ghen, hội họa dân gian Việt Nam.

 

                                                                     

"Khôn chết dại chết vờ thì sống"[1]. Cổ nhân có câu nói như thế.

 

Quả thật không ngoa.

 

Này nhé, ta hãy thử nhìn về một đất nước xa xăm kia thì rõ. Câu nói trên không những là một câu phương châm, mà còn là một thứ "kinh nhật tụng" của đại đa số người dân sống trong xã hội đó. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn miêu tả trong tác phẩm của ông, cứ hiểu theo như ý ông viết, muốn tồn tại và vinh thăng trong cái xã hội ấy thì phải biết vờ, vờ nói, vờ nghe, nghĩa là khi nói, biết mình nói dối nhưng vẫn phải vờ nói dối một cách thành thật, khi nghe, biết mình không muốn nghe nhưng vẫn phải vờ nghe một cách thành khẩn. Cứ như thế, ta thấy vờ là một triết lý sống rất sinh động trong một vài xã hội ngày nay vậy.

 

Nói cho thực và cho rộng ra, vờ chiếm một phần không nhỏ trong đời sống, không những của chính ta mà còn của cả loài người và mọi loài trên trái đất này. Nó chiếm một vị thế quan trọng trong mọi sinh hoạt từ cổ chí kim và từ Đông sang Tây.

 

Ấy chẳng thế mà ông Thu Giang Nguyễn Duy Cần đã coi vờ của người xưa như một gương sáng và được ông viết trong cuốn "Thuật Xử Thế Của Người Xưa" mà ông cho là hậu thế nên noi theo đó như một thứ đạo học làm người. Vì tác phẩm này tôi đọc hồi còn nhỏ nên chỉ nhớ lõm bõm được vài điều xin được kể cùng các bạn nghe.

 

Truyện thứ nhất, ý kể rằng:

 

Trong truyện Tam Quốc Chí, khi Lưu Bị còn nằm trong tay Tào Tháo. Tào Tháo đa nghi và ngờ Lưu Bị là kẻ anh tài nên muốn kiếm cớ giết đi để trừ hậu họa. Một hôm, Tào Tháo mời Lưu Bị vào dinh ăn cơm để dò ý tứ ra sao. Trong khi chè chén, Tào Tháo vờ khen Lưu Bị là kẻ anh hùng trong thiên hạ. Nghe thế, Lưu Bi rụng rời chân tay. May thay, nhân nghe thấy tiếng sấm nổ ầm lúc đó, Lưu Bị vội giả vờ đánh rơi đũa vì sợ sấm to. Tào Tháo thấy thế trong bụng không còn coi Lưu Bị là kẻ anh hùng đáng lo nữa nên Lưu Bị đã thoát chết về tay Tào Tháo. Nhờ biết vờ sợ sấm mà Lưu Bị thoát chết.

 

Truyện thứ hai, ý kể rằng:

 

Ở bên trời Tây kia, có hai chàng “công tử” cùng yêu một cô gái xinh đẹp con của một vị thượng lưu giầu có nọ. Hai chàng ra công lấy lòng ông bố để hy vọng được ông gả con gái cho mình. Một chàng thì lúc nào cũng tỏ ra mình tài giỏi hơn ông bố vợ tương lai. Một chàng thì lúc nào cũng vờ tỏ ra thua kém ông ta về mọi mặt. Vì cảm thấy luôn được hơn người nên ông bố cô gái đặt tình cảm thiên về chàng trai hay vờ. Rồi một hôm, hai chàng trai và ông bố cùng thi đua ngựa. Chàng trai háo thắng luôn cố vượt lên trên ông bố, còn chàng trai hay vờ thì vờ ngã ngưạ để cho ông bố có dip ra tay nghĩa hiệp. Quả thế, ông bố trúng “đòn vờ” nên quyết định gả con gái cưng cho anh chàng vờ này. Nhờ biết vờ mà anh ta được vợ.

 

Trong Binh thư yếu lược của đức Trần Hưng Đạo cũng nêu lên chiến thuật vờ trong thuật dụng binh. Dùng dương mà người ta không lường được là dương, thì dương mà hóa ra âm vậy. Dùng âm mà người ta không lường được là âm thì âm mà hóa ra dương vậy ... Người giỏi dùng binh, không đủ thì tỏ là có thừa, có thừa thì tỏ là không đủ. Địch không biết thế nào mà lường cho đúng được. Tóm lại là ngài dậy ta vờ.

 

Vua Ngô Quyền thắng quân Nam Hán ở thế kỷ thứ 10 và đức Trần Hưng Đạo thắng quân Nguyên ở thế kỷ thứ 13 cùng trên sông Bạch Đằng, ấy cũng là nhờ biết vờ thua dụ địch vào chỗ “hiểm” mà đánh. Biết vờ nên dựng được nghiệp lớn.

 

Nếu ta đọc truyện Tầu tất ta thấy nhan nhản những chuyện vờ. Cũng như trong truyện Tam Quốc Chí, trận đánh hỏa công lừng danh trong lịch sử Trung Quốc là trận Xích Bích trên sông Trường Giang. Trận này sao thực hiện được nếu không nhờ tướng Hoàng Cái vờ chịu để Chu Du đánh đập làm nhục giữa doanh trại để có cớ trá hàng Tào Tháo hầu thực hiện dứt điểm cuối cùng cho trận hỏa công lừng danh thiên hạ ấy, đem chiến thắng về cho Đông Ngô. Đấy là những cái vờ của những bậc đại chí.

 

Thật ra, cuộc đời là những tấn tuồng, người ta hay nói như thế, mà tuồng vờ thì được diễn nhiều hơn cả. Vờ thì không phân biệt giới tính, tuổi tác, tầng lớp xã hội hay văn hoá ... gì cả, ai cũng diễn được và ai diễn cũng hay như nhau, bên tám lạng bên nửa cân.

 

Vờ len lỏi khắp mọi nơi, xen vào mọi công việc, mọi tính toán. Vờ không phân biệt thời gian lẫn không gian, nghĩa là lúc nào, chỗ nào cũng vờ được cả. Vờ từ việc chung cho đến việc riêng. Nếu bỏ vờ đi, trời đất sẽ tối sầm. Loạn.

 

Này nhé, ta cứ nghe nhà thơ Tú Mỡ vờ:

 

"Vắng mặt chủ nghịch nô như quỷ sứ, tầm váo tầm vênh

Thấy hút Tây, vờ vĩnh khéo ma bùn, nhớn nhơ nhớn nhác."

 

Hay ông Tú Mỡ thấy thiên hạ vờ.

 

Làng kia có bác kỳ hào,

Kể trong thứ vị cũng vào bậc trung.

Những khi đi họp hội đồng,

Thường đeo cổ áo lòng thòng sợi dây.

Hẳn là ân tứ chi đây,

Kim tiền, kim khánh, mề đay, thẻ ngà.

Đầu dây lẫn dưới áo là,

Đố ai biết được nó là cái chi.

Người đoán lại kẻ đoán đi,

Có người kết luận: thường khi dây ... vờ.

Một anh ba rọi ỡm ờ,

Kéo dây nửa thực, nửa đùa đòi xem.

Kim tòng vừa mới kéo lên,

Đầu dây chỉ thấy... đồng kền năm xu.

 

Ta có thể nghe cụ Nguyễn Công Trứ nói về "Cách ở đời ":

 

Ăn ở sao cho trải sự đời,

Vừa lòng cũng khó há rằng chơi.

Nghe như chọc ruột tai làm điếc,

Giận dẫu căm gan miệng mỉm cười.

 

Có kẻ nghèo vờ làm sang, kẻ dốt vờ làm giỏi, kẻ ác vờ làm hiền, kẻ hèn vờ làm anh hùng... hay đôi khi ngược lại. Như có người trẻ lại muốn vờ làm người già:

 

Trước mắt long lanh đôi kính trắng,

Dưới cằm lún phún sợi râu xanh,

Đứng ngồi khệ nệ oai nghi giả,

Ăn nói mầu mè đạo đức tuyênh.

(Tú Mỡ)

 

Hay có kẻ già lại vờ làm trẻ:

 

Đầu tóc nhuộm đen hầu trẻ lại,

Râu ria cạo trụi rõ... trai lơ.

Đua chơi ra phết ông còn trẻ,

Làm việc lơ mơ cụ kiếu già.

(Tú Mỡ)

 

Có các cô các cậu mới lớn hay "chúa vờ" khi đối diện nhau. Có những trường hợp vờ "muốn ăn gắp bỏ cho người ". Vì vờ là không thực nên còn gọi là giả, giả thì có giả vờ, giả đò, giả bộ, giả ngô giả ngọng, giả điếc giả câm... Cứ như:

 

 Trong thiên hạ có anh giả điếc

Khéo ngơ ngơ ngác ngác ngỡ là ngây,

Chẳng ai ngờ sáng tai họ điếc tai cầy,

Lối điếc ấy sau này ta muốn học.

...

Sáng một lúc lâu lâu rồi lại điếc

Điếc như thế ai không muốn điếc,

Lối điếc anh dễ bắt chước ru mà,

Hỏi anh anh cứ ậm à.

(Cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến)

 

vờ trong ca dao:

 

Thò tay ngắt ngọn cọng ngò,
Thương em đứt ruột giả đò ngó lơ.

 

Thương anh hãy đứng xa xa,
Đừng có đứng cận người ta nghi ngờ.
Thương anh hãy đứng cho xa,

Con mắt anh liếc bằng ba đứng gần.

 

Không khóc thì tội bụng chồng,

Khóc thì lạt lẽo như dưa hồng mắc mưa.
Ớ chị em ơi!

Cho tôi xin tí nước mắt thừa,
Tôi về tôi khóc tiễn đưa mẹ chồng.

Khóc rồi, tôi đổ xuống sông,
Cá mương, cá diếc, cá hồng ních no!

 

Bản thân của vờ thì hiền lành vô hại, nhưng đôi khi vờ lại được vận dụng vào một số trường hợp nào đó trong đời sống để vờ bị hoá thân thành lừa hay bịp tùy theo tình huống. Lừa thì có thể áp dụng cho những mục đích tốt hay xấu, nhưng bịp thì không thể nào hiểu theo nghĩa tốt được, nó thuộc loại:

 

Thầy bói, thầy cúng, thầy đồng,

Nghe ba thầy đó cái lông không còn.

(Ca dao)

 

Hay:

 

Phù thủy, thầy bói, lái trâu,

Nghe ba thầy đó, đầu lâu không còn.

(Ca dao)

 

Để chấm dứt lá thư này, tôi dặn các bạn, dù có biết ai vờ cũng mặc đấy nhé. Biết cái vờ của thiên hạ chỉ mang cái vạ vào thân, như Dương Tu (trong Tam Quốc Chí), một trong những nguyên nhân bị chết thảm dưới tay Tào Tháo cũng chỉ vì Dương Tu biết rõ về những cái vờ của Tào Tháo vậy. Cứ kệ.

 

Nguyễn Giụ Hùng

 

 [1] Sửa lại từ câu “Khôn chết dại chết biết thì sống” (Trang Tử).

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
buổi chiều nào se lạnh / mưa đổ muộn xuống mùa hè miền đông bắc / như trận mưa ở saint paul năm nào / ngày thanh tâm tuyền chết./ buổi chiều tôi biết muộn / cái chết của cung tiến...
Di sản nghệ thuật của nhạc sĩ Cung Tiến không nằm ở số lượng, mà đầy ở phẩm chất. Ngoài những ca khúc, tấu khúc thuần tuý giá trị về âm nhạc, ông còn để lại những bài viết, tiểu luận dưới nhiều đề tài văn học, kinh tế, và truyện dịch. Chúng ta đã đọc, đã nghe khá nhiều về tài hoa và khả năng sáng tác của Cung Tiến từ tuổi 15 cho đến những năm tháng sau cùng. Trong những quà tặng ông để lại tôi đặc biệt yêu thích nghệ thuật phổ thơ thành nhạc của ông, chẳng những cho chúng ta thưởng thức giai điệu bán cổ điển tây phương, ngủ âm đông phương, mà còn mang thơ Thanh Tâm Tuyền, một trong vài thi sĩ hàng đầu trong thời đại của ông đến giới thưởng ngoạn nhạc nghệ thuật và lưu trữ vào kho tàng âm nhạc Việt. Thơ Thanh Tâm Tuyền không dễ phổ thành nhạc.
Như những tiếng cầu xin cứu vớt linh hồn chúng tôi / ngoài khơi bí mật đến tự một con tàu biển; / qua những mảnh danh từ dệt nên hồn mầu nhiệm / em vẫn chỉ là tóc mây cổ nõn và môi./ Sau áo len danh từ là thế giới xa vời, / là đêm không trăng sao là trùng dương thăm thẳm; / qua những chuỗi ngọc cười, em vui nước mất đẫm / vai anh, em buồn. Đêm hồn anh dài không nguôi.
Phiến đá là một vầng trán nơi những giấc mơ hiền than thở/ Không một dòng nước uốn quanh và những cây tùng bách giá băng / Phiến đá là một cánh vai trần để chở đi thời gian / Với những cây nước mắt những dải băng và những tinh cầu / Tôi đã thấy những trận mưa xám chạy dài theo những đợt sóng / Giơ cao lên những cánh tay ngọt ngào lỗ chỗ / Để không cho phiến đá duỗi dài với được / Phiến đá chặt tay chân ra thành từng mảnh mà không thèm hút máu
Cung Tiến là một tên tuổi lớn của âm nhac Việt Nam, nhưng ông cũng là một tác giả có nhiều đóng góp vào hai mươi năm văn học miền Nam và văn học hải ngoại. Vào những thập niên 1950 và 1960, với bút hiệu Thạch Chương, Ông đã sáng tác, nhận định và phê bình văn học, cũng như dịch thuật, cho các tạp chí Sáng Tạo, Quan điểm, và Văn. Hai trong số các truyện ngắn ông dịch và xuất bản ở Việt Nam là cuốn Hồi ký Viết Dưới Hầm của Dostoievsky và cuốn Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovitch của Solzhenitsyn. Mời đọc lại một bài viết về Hermann Hesse của Thạch Chương, tức nhạc sĩ Cung Tiến.
Thoa đứng tỳ tay và cằm trên lan can ngó xuống đường. Một con phố đông về chiều đã hết nắng. Trời chạng vạng. Các cửa tiệm đã lên đèn néon đỏ, xanh lá cây, rất lõa lồ, mời mọc và bẩn thỉu: những quán rượu. Dưới hè đường mấy đứa bé đánh giầy đang ngồi chơi cờ carô trên ô gạch, bằng phấn trắng, yên lặng như những ông già. Mấy người lính Mỹ bước vội vã vào mấy quán rượu. Những tên quán rượu ngồ ngộ và lạ lùng: Blue Moon, Starlight, Princess, San Francisco.
Nhạc sĩ Cung Tiến sinh ngày 2.11.1938, tên thật là Cung Thúc Tiến. Ông sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Cụ thân sinh của Cung Tiến là một nhà thơ, một nhà cách mạng của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Trong gia đình Cung Tiến không có ai theo con đường âm nhạc, nhưng ông lại đam mê âm nhạc từ nhỏ. Cung Tiến bắt đầu sinh hoạt văn nghệ từ thời còn là học sinh tiểu học, đi học hát trong nhà thờ, hát trong các ca đoàn Công giáo và được giao điều khiển ban hợp ca của các trường khi lên tới trung học.
Lúc ấy nhân duyên đưa đẩy, tôi được biết đến bài Vết Chim Bay của ông và xin phép ông cho tôi thu âm bài đó vào CD. Ông chắc cũng chưa nghe tôi hát bao giờ, nhưng cũng cho phép, mà cũng không nhận tiền bản quyền, lại còn cho tôi cả bản hòa âm phối khí dàn nhạc của ông cho tôi sử dụng nữa! Khi tôi đưa bài cho Duy Cường làm theo hòa âm phối khí của Cung Tiến thì Cường “kêu” là mất công lắm. Thường thì các nhạc sĩ Việt Nam viết ca khúc chỉ viết giai điệu thôi, có thể viết thêm những hợp âm cho bài hát, nhưng rất ít người viết soạn hòa âm hay phối khí cụ cho bài hát của mình. Do đó, các nhạc sĩ hòa âm tha hồ muốn hòa âm phối khí sao cũng xong và có thể làm rất nhanh. May thì hay, nhưng nhiều khi nghe không có gì đặc biệt cả và có khi còn chói tai nữa. Duy Cường là một người hòa âm hay, nhưng theo tôi, bài Vết Chim Bay phải dùng hòa âm của Cung Tiến mới đạt! Duy Cường phải đánh vào máy từng phần của các nhạc khí từ tổng phổ ông Cung Tiến cho, để cho vào “synthesizer” và đưa cho các nh
Từ ngày Du đột nhiên mất tích đến nay, Viễn không còn khái niệm về thời gian. Bao nhiêu năm tháng đã trôi qua, cô không còn quan tâm… Bởi Viễn đã dồn tất cả tâm sức cho cuộc tìm kiếm. Cuộc kiếm tìm mà ai cũng cho là điên rồ, vô vọng. Nhưng Viễn thì không bao giờ, không bao giờ ngừng hi vọng… Viễn đã tìm Du bằng mọi cách. Nhưng Du cứ như người từ hành tinh nào đến rồi biến mất, không hề để lại chút dấu vết!
Tháng sáu mưa buồn bất chợt / đẫm đóa bằng lăng tròn giọt / vẽ luống dài ký ức / long lanh của lệ...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.