Hôm nay,  

Âm thanh là lúa ngọc

09/07/202217:37:00(Xem: 3467)
ThreeMusicians1921byPabloPicasso
Ba nhạc sĩ (1921) -- Tranh Pablo Picasso.

 

Nguyễn-hòa-Trước là nhà thơ hiếm hoi còn làm thơ xuôi ở hải ngoại (và có lẽ ở cả trong nước). Thơ anh là thơ Ngôn ngữ. Ở đây ngôn ngữ chiếm địa vị độc tôn. Tinh tuyền. Kỳ ảo. Luôn luôn mở ra những chiều kích mới mẻ lạ lùng trong tâm trí người đọc, bởi trong lúc đọc một câu thơ, bạn sẽ không tiên liệu được câu kế tiếp sẽ là gì, nói về cái gì. Thực chất, đừng đòi hỏi thơ họ Nguyễn nói về cái gì, hãy xóa tan đi mọi định hướng, định hình cho thơ, sự vật ngoài-thơ, phi-thơ đều không có giá trị, mà hãy nhận chân Cái Đẹp của nghệ thuật do nhà thơ cống hiến. (TYT)

 

1.

 

Quẳng rồi lưới rọ bảo tâm yên

lặng để sông kia ngủ thật hiền

 

2.

 

Âm thanh, như lúa ngọc, ướp thơm sương muối, đòng đòng theo gió ruộng; với 1 phiên hô hấp đan kết đất trời nhịp nhàng đã đủ tung tăng trên đường biên của tịnh hòa và bộn bã.

 

Cây-nhân-sinh là ta này, từ khi biết múa máy, là một cội xun xoe bận bịu; ngày sau ngày đâm nhánh nhóc sum suê; đông hạ xuân thu lá hết kiếp rời cành rớt xuống gom thảm lót lối cho thơ thơ bay qua đảo lại bao niên hơi hướm đã vun vê hốt ngọn,

 

thơ được sủng ái thế nào mà sáng hôm nao đã nhan nhác dị thường, ngõ thơ la cà không còn xào xạc tiếng giỡn nô,

 

mấy nhát chổi quơ quào biếng nhác tục trần là những ngón vuốt lên điệu lời loang lổ.

 

Ta vái lạy cầu đến tài quét dọn tinh tươm thiên bẩm của âm thanh, người bạn tri kỷ dịu dàng nhân ái (của thơ) ngụ cuối bãi sông ở thao tác thành thạo cuối cùng của tràng nhát nhúa cúi đầu dối giả,

 

đã an toàn sau căn nhà tranh-vá-đất cửa hở then lơi nhấp nhoáng trận đồ râu tóc cội đa làng ta vòi vĩnh được ung dung nhai nhấm tiếp hạt khoái lạc trong tâm trạng phiếm nhã lạ thường của tưởng tượng và ám thị vốn là giềng mối của trái đau nhân gian chưa được thanh thỏa tột cùng chi li,

 

ta (bạo dạn) hỏi vay mượn từ âm thanh, giả vờ ngu dại không biết rằng, âm thanh sống tự tại bằng cái-không-có-gì của chính nó; nhưng quả tình ta không hề biết: âm thanh, chính nó, dù trong thế cảnh nào, vẫn vừa là cô đơn vừa là đông đúc; vừa túng quẫn vừa dư giả; tự nó là buộc trói và giải vây; nó tự phân đôi phân tư rồi rút về dấu chấm bụi trong nhân noãn của lớp nhầy vô sinh mà chu kỳ là một lên đường và đến đích, một khởi đầu và bế mạc.

 

Âm thanh hào sảng mời ta dùng bữa tiệc đói, khai thị cho ta thứ căn cước vô định tính, rỗng huyễn, bỗng bềnh, bé tí của nó; nhưng khi nó thở, nó khóc cười, lời thở và bóng khóc cười hài nhi này loãng tan vào cõi hồng hoang, chọc nhột bọn cỏ bồ công anh co ro khép vỏ, ủi an bác hoa gạo sừng sững buồn rầu, đánh thức các nàng bướm-hạc-trắng họa-mi-mỏ-xanh ong-vàng-nghệ õng ẹo đòi ngủ nướng, kích hoạt khoắng khua khúc ao hồ đời người bèo se mạch nghẽn.

 

Âm thanh tự nó là trung trinh; nó tự nguyện rời khỏi phúc phận miên hàn kết bạn với và mang vóc dáng và tinh túy từ bàn tay nhuyễn thể và tim não hảo hoạt của khách tài tử; nó tự bộc lộ nó chính là cái màu sắc não nùng đẹp man man lãng phiêu từ bao thuở, giờ đã tìm được một minh trụ để đầu thai, đầy đặn tác tướng; nó phủ mượt lên vô vàn náo động xôn xao vô bổ trầm luân của kiếp sống: một nốt gảy thì thầm; một lách tách láu lỉnh; một than vãn trẻ trung: chúng lấp đầy một góc hộp tuổi thọ của ta cách rất dễ thương, tài hoa, và sáng tạo.

 

Ta chưa hề dám đánh cuộc với chính mình là (hãy thử) bơi trườn hoài lên một bãi cát; tắm truồng hoài trong một dòng suối; tranh luận hoài với lũ sậy non đệ nhất thảo mai; mở thênh nghe hoài một dĩa nhạc, bập bềnh hoài giữa vũng lỏng thất sắc trăm bủa nghìn vây bởi một thính phòng với vô vàn tôn giả mà tất thảy đều đang ngật ngà rượu u uất,

 

chưa bao giờ ta nghĩ sẽ có lúc tận tình hả hê đâm rễ tự tạc tượng nơi đó ăn uống nhai nuốt mãi nhúm quãng thời-không đang cảm thấy phúc lộc vì được dâng hiến cho một giọng hát thủy liễu nhưng thừa sức trèo-núi-cao băng-sông-dài kiêm ái cố tìm mang về được dăm cụm hương thu thao thiết mãi cho đời.

 

Âm thanh đã là thể, là chất; xác của nó là yêu tinh hay thần nữ, bóng của nó là ma mị hay giải thoát? (chỉ là những câu hỏi đứng ngoài lề phiền nhiễu! ôi, ta đáng hổ thẹn với chính mình!); phải bao kiếp ta mới mở được bức mật điệp này: tất cả chỉ là phép biến hóa diệu kỳ của 7 giọt thăng trầm đen trắng râu móc chập chùng; trong tuyệt cùng tê dại, ta (được đưa) trở về cõi thần thoại thánh thót ngàn năm ca dao mẹ-và-cha - những tiên lão trình diễn sử thi trác tuyệt -; âm thanh khanh khách chạy rông ngoài đường ngoài ngõ; âm thanh nấn ná ủ ê trong hang trong hốc trò chơi trốn tìm, mỗi lần vấp váp là mỗi đom đóm sao và nguyệt hợp hoan,

 

âm thanh bước tới cả những khi dừng lại; thiêm thiếp nôi hồng giữa ôm đồm sóng biếc; những tiếng khánh tiếng chuông du hành trên dây những quả bóng xốp mà chúng tạo ra (ta được công kênh vào một trải nghiệm cực kỳ gây bối rối).

 

Bí điệp lại rộn ràng bên tai: phải trống trải hồn nhiên: tất cả nhôn nháo khốn khổ cần để lại trước hang động lả không gợn lướt không chao này,

 

không hề có viên đá nào để gia công giũa mài cho thành ngọc.

 

Chỉ với hồn yêu và tâm ái, âm thanh đã vươn lên tầm dị thường.

 

3.

 

xõa nón che cao đầu bỗng trượt

ngã lành lạnh tóc hỏng sương đêm

 

– Nguyễn-hòa-Trước

(07-2022, gửi anh Trịnh Y Thư).

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thơ của ba người: Lưu Diệu Vân, Trần Hạ Vi, Thy An...
Với tôi, tháng Hai là tháng mùa đông tàn phai, chuẩn bị tâm hồn phơi phới cho những ngày sắp tới. Các bạn tôi giãy nảy lên, xúm vào bảo tôi “nói thách” sớm quá, vì tháng Hai vẫn là mùa đông, nhiệt độ vẫn ở độ âm dưới zero, tuyết vẫn rơi bao la, vậy tàn đông cái nỗi gì!
Viết đôi dòng thư pháp ca ngợi Đức Thế Tôn mực loang như nước mắt ngấm ơn sâu vào hồn.
Hôm thứ Ba vừa rồi, vợ chồng tôi đến ga NTG đón hai mẹ con người bạn vào chơi trên chuyến tàu Bắc-Nam SE7 dự kiến sẽ đến ga lúc 9h15 AM, Chúng tôi ngồi ở phòng đợi cùng với những hành khách đón tàu xuôi các ga phía Nam...
Tôi đạp xe về nhà với cõi lòng lâng lâng. Chẳng biết từ lúc nào tôi đã thương mến thầm anh Phượng hàng xóm, anh hơn tôi chừng 7, 8 tuổi, hát hay đàn giỏi, thỉnh thoảng buổi tối anh ngồi trước cửa nhà đàn hát, tiếng hát ngọt ngào của anh đã rót vào trái tim 16 tuổi trăng tròn của tôi những tình cảm bâng khuâng. Anh đi lính, xóm vắng anh, vắng cả những đêm khuya tiếng hát tiếng đàn...
Ở vùng quê người ta vẫn dùng một vài thứ lá như lá vối, lá "ngấy" (không phải lá ngái), lá bò bò, dây lá nhãn lồng (có nơi gọi lá mắm nêm) kiếm từ rừng rẫy về xắt ra, phơi khô trữ từng bao để nấu uống dần thay lá chè (trà). Nước các thứ lá ấy ai cũng dùng được, cả nhà sẽ uống suốt ngày...
Tuổi học trò là tuổi mang nhiều kỷ niệm khôn nguôi. Chúng ta nghĩ về thuở xa xưa đó như nghĩ về sân đá banh, suối Đốc Học, suối Mu-ri (Maury), thác Nhà Đèn, hồ Piscine, hồ Trung Tâm hay cột đèn ba ngọn, kể cả con chim, con dế, một thứ keo dính chặt trong trí nhớ học trò...
Thơ của ba người: Quảng Tánh Trần Cầm, Nguyễn Hàn Chung, Vĩnh Ngộ...
Trực thăng vừa đáp, cánh quạt thổi cát bụi tung mịt trời, cỏ tranh bên dưới ngã rạp, thân dập dềnh như sóng. Thăng nhảy xuống trước tiên, đảo mắt quan sát chung quanh rồi quay người lại giơ tay cho Chinh bám lấy để bước xuống. Cũng chiếc máy truyền tin cũ đeo sau lưng, nhưng hôm nay có vẻ nặng hơn vì gương mặt Chinh đanh lại chứ không nhìn Thăng cười và khẽ gật đầu như những lần đổ bộ trực thăng trước. Chinh mang máy cho Thăng đã ba năm, đeo hạ sĩ gần một năm. Thầy trò đã kề cận, cùng vào sinh ra tử không biết bao nhiêu lần, chưa bao giờ Chinh biểu lộ sợ hãi kể cả những lúc nguy khốn nhất, bị địch vây hãm phải mở đường máu để triệt thoái...
Chiều hôm ấy, một buổi chiều cuối mùa Hè năm 1956, trước cổng trường Võ Tánh Nha Trang, Trọng nhìn theo mái tóc dài thả sau hai bờ vai và tà áo dài trắng, và gọi lớn tên nàng nhưng Thu Nguyệt vẫn lặng lẽ tiếp tục đạp xe đạp, không đáp lại lời kêu gọi của Trọng, ngay cả ngoái đầu nhìn lại nhau lần cuối...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.