Hôm nay,  

Phật pháp vào chốn lao tù

28/07/202216:48:00(Xem: 3345)

Tùy bút 


nguyencau

Câu chuyện bắt đầu rất đau buồn nhưng về sau lại mở ra một cánh cửa mới đầy hy vọng và tỉnh thức. Zach Obseon lúc nhỏ đã chứng kiến em gái của mình bị hiếp và giết chết, sau này lớn lên anh theo học ngành cảnh sát với tâm nguyện ngăn chặn cái ác, không để xảy ra những trường hợp như em gái của mình. Về phần kẻ thủ ác, anh ta tên  Dennis Skillicorn , sau khi bị bắt và chịu án chung thân không ân xá. Trong thời gian ở tù, anh ta đã ăn năn tội lỗi của mình, anh ta và những bạn tù khác lập ra tờ báo “Compassion”, số tiền thu được làm học bổng cho Obseon cũng như những học viên cảnh sát khác. Có một đoạn được trích từ tờ báo ấy:” Chúng tôi muốn trợ giúp Obseon hoàn thành giấc mơ trở thành cảnh sát hình sự để ngăn chặn tội ác bạo động trong tương lai”. Người tù chung thân và những bạn bè của anh ta đã làm báo lấy tiền hỗ trợ tài chánh cho các học viên cảnh sát với hy vọng là sẽ có thêm những nhân viên công lực bảo vệ an toàn xã hội, ngăn chặn cái ác.


Chuyện tù nhân ăn năn sám hối tội lỗi vốn không lạ, tù nhân làm báo là một chuyện hy hữu của thế gian này, có thể nói là việc chưa từng nghe thấy ở bất cứ nơi đâu trên thế giới. Đây là câu chuyện được thuật lại trong quyển:” Nữ tu và tù nhân Hoa Kỳ” của ni sư Thích Nữ Giới Hương. Trong quyển này còn có một số lượng lớn thư từ của các tù nhân viết gởi cho ni sư, cảm ơn ni sư, trình bày sự chuyển biến thay đổi của con người họ. Một sự thay đổi vô cùng ngoạn mục từ nhận thức đến hành động, một sự thay đổi khó tin nổi nhưng đây là một sự thật. Trong nhà Phật thường nói không có phép thuật mầu nhiệm, phép thuật mầu nhiệm không phải là đi trên mặt nước hay phun lửa nhả khói, phép lạ nhiệm mầu chính là thay đổi một con người. Đọc xong quyển sách này, tôi thấy đây là cả một phép lạ mầu nhiệm mà ni sư Giới Hương cùng các tu sĩ và hội thiền Milwaukee khác đã thực hiện được ở một số nhà tù của tiểu bang Wisconsin.


Trong suốt nhiều năm, ni sư Giới Hương, ni sư Tonen và các tu sĩ khác của hội thiền học Milwaukee đã đi đến nhiều nhà tù để trợ giúp tinh thần cho các tù nhân, dạy thiền, hướng dẫn Phật pháp, có thể kể tên vài nhà tù trọng cấm khét tiếng như: Dodge Correctional Institution, Green Bay Correctional Institution, Oshkosh, WI.


Mọi người chúng ta cũng biết đấy, chốn lao tù là nơi giam giữ những kẻ phạm pháp luật, nhưng chốn lao tù lại vắng bóng pháp luật, ở đấy chỉ có luật rừng, luật giang hồ, đại bàng, đầu gấu, nha trảo… hành xử thay pháp luật. Ở đấy chỉ có sức mạnh và sự tàn ác thống trị, trong chốn ấy tù nhân chẳng còn nhân phẩm danh giá gì, ngay cả thân xác cũng bị bạo hành thường xuyên. Những tù nhân chịu án chung thân hay tử hình thì càng ghê gớm hơn. Họ không còn gì để mất nên rất hung hãn và tàn bạo… Ấy vậy mà ni sư Giới hương một phụ nữ chấu Á nhỏ bé cùng với những tu sĩ khác dám dấn thân vào chốn lao tù để hoằng pháp độ sanh. Việc làm của ni sư đã có hiệu quả to lớn, khá nhiều tù nhân đã chịu lắng nghe, chịu thực hành thiền, họ nhìn lại bản thân họ, quán lại nội tâm họ. Rất nhiều tù nhân trở nên hiền hơn, bớt bạo động, loạn động, quậy phá, đánh nhau. Quan trọng là họ nhìn ra sự thật và chấp nhận hậu quả đã gây ra. Họ tìm được sự an lạc ngay trong những ngày tháng bị giam giữ. Quản giáo các nhà tù cũng rất có thiện cảm và họ tạo điều kiện thuận lợi cho ni sư và các tu sĩ hoạt động. Rất nhiều lá thư viết rất cảm động, họ cảm ơn ni sư, ta có thể kể tên vài tù nhân như:  Cadence, Brodwin, Jackson, Amanda, Nathniel… Và có cả tù Việt nữa như: Cong Tran…


Ni sư Giới hương người Bình Tuy, thuở nhỏ quy y với sư bà Hải triều Âm, ni sư đã tốt nghiệp khoa văn trường đại học tổng hợp ( tức trường văn khoa cũ), sau đó du học ở Ấn Độ mười năm và hoàn thành luận án tiến sĩ Phật học ở đại học Delhi.Năm 2005 ni sư sang Mỹ hoằng pháp và lại tốt nghiệp cử nhân khoa văn của trường đại học Riverside ( Ca), hiện thời đang học cao học ngành văn chương cũng trường Riverside (Cali). Ni sư sáng lập chùa Hương Sen ở Cali và Hương Sen ở Sài Gòn. Ni sư đã viết hàng chục cuốn sách và biên soạn một số kinh điển, có thể kể tên vài đầu sách như: Nữ tu và tù nhân Hoa Kỳ (đã tái bản đến lần thứ 5), Nét bút bên song cửa, Luân hồi trong kinh lăng nghiêm, Pháp ngữ trong kinh kim cang... Vừa rồi tôi có duyên lành được ni sư tăng một số sách, quả thật với số sách này chắc phải đọc cả tháng mới xong. Tôi thật sự kinh ngạc với năng lực viết sách và biên soạn của ni sư, một năng lực thật kinh khủng, không làm sao hiểu nổi ni sư có thể viết chừng ấy sách trong khi đó lúc nào cũng bận rộn làm việc cật lực, nào là lo xây dựng chùa, tham gia giảng dạy ở học viện Phật giáo ( Sài Gòn), đi thuyết pháp, lên mạng thuyết pháp, đi các nhà tù trợ giúp tinh thần cho tù nhân, đi tham học các nơi… Ni sư cần mẫn làm việc cả chân tay lẫn trí óc, một năng lực đáng kinh ngạc. Thật sự không hiểu từ đâu mà ni sư có một trí lực, sức lực kinh khủng đến như thế. Một thân thể cũng tầm thước bình thường như mọi người Việt nhưng lại ngầm chứa nội lực thật kinh khủng, sở dĩ tôi lập đi lập laị hai chữ kinh khủng vì quá khâm phục sức làm việc của ni sư. Trong đầu tôi lại tái khởi câu hỏi mà tôi đã nhiều lần tự hỏi:” Cũng thân thể con người ta như thế, cũng ăn cơm uống nước hít thở khí trời như thế, cớ sao có những người lại thông minh một cách tuyệt vời, giỏi giang và tài hoa tuyệt đỉnh còn mình thì như cái bị thịt, cứ sống lây lấy ù ù cạc cạc cho qua ngày?”


Đây chỉ là câu hỏi tu từ, hỏi để mà hỏi chứ thật sự ai cũng biết, hỏi để thố lộ nỗi lòng trong phút chốc vì thấy ai cũng tài giỏi mà mình thì “Như cái bị thịt vô tích sự”. Mọi việc, mọi sự trên thế gian này không có gì nằm ngoài cái mối: Nhân – duyên – quả cả! 


Ni sư Giới Hương  hoạt động không mệt mỏi, đi khắp các chùa ở Mỹ để hoằng pháp, đi nhiều nhà tù để độ sanh, giúp chữa trị tinh thần cho tù nhân, vực họ dậy từ hoang vu tro tàn của sự hoang mang tuyệt vọng. Quý vị cứ thử hình dung nhé, một phụ nữ châu Á nhỏ con, khác biệt văn hóa, tập quán, truyền thống và đức tin… vậy mà đã thuyết phục, thuyết pháp cho những tù nhân Mỹ, Phi to như đô vật, hung hăng và rất manh động. Thế mà bọn họ đã nghe và đã thực hành theo lời ni sư, phải có phước đức lớn lắm mới có thể làm được một việc tưởng chừng như không thể. 


Ni sư Giới Hương có thể nói là một nhân tài trong Phật giáo Việt Nam hiện đại, xứng đáng là ni trưởng trong ni giới Việt (cả hải ngoại lẫn quốc nội). Chủ nhật vừa rồi, ni sư cùng với mấy huynh đệ của mình sang thành Ất Lăng dự lễ tưởng niệm ân sư hòa thượng Thích Như Minh. Tôi có dịp được gặp ni sư trong một buổi. Tôi ngầm quan sát xem ni sư (với sự kính trọng) có những quý tướng nào chăng hay có những dấu hiệu kiệt xuất, nhưng tôi thấy ni sư cũng bình dị như mọi ni sư khác: hiền hòa, từ ái, vui vẻ và khá nhanh nhẹn, nói năng rõ ràng, khúc chiết. Ấy vậy mà trong cái thân ngũ uẩn ấy lại có một năng lực thật đáng để khâm phục, một sức làm việc không mệt mỏi, sức sáng tác mạnh mẽ, một trí lực thông minh mẫn tiệp, thật xứng đáng là trưởng tử của Như Lai.


Ni sư đã đi nhiều nhà tù để hướng dẫn phật pháp cho tù nhân, Phật pháp không còn là nói huyền nói diệu, không phải ở những bộ kinh đồ sộ thâm sâu ý nghĩa, Phật pháp cũng không ở trong những bảo điện nguy nga lộng lẫy. Phật pháp đã áp dụng ngay trong đời thường, Phật pháp vào chốn lao tù, cái chốn đau khổ, đen tối nhất của cõi người. Phật pháp đã đến với tù nhân, những con người phạm tội, những con người mất tự do vì phải trả giá cho tội ác của mình. Phật pháp đã vực dậy và làm thay đổi không ít con người trong cái chốn khốn cùng ấy. Những con người từ tuyệt vọng, hung hãn, manh động, không còn mục đích và ý nghĩa gì để sống đã trở thành những con người hiền hơn, biết phục vụ cho tha nhân cho dù bản thân vẫn phải chịu giam cầm vì tội lỗi của mình trước kia. Phật pháp đến với những tù nhân của ngục tù thế gian, ngục tù của sự si mê sân hận, ngục tù của tối tăm không lối thoát… Những con người vừa đáng giận vừa đáng thương ấy đã nhận được pháp nhũ, đã cảm thọ được diệu pháp từ ni sư Giới Hương và những tu sĩ khác, những vị sư can đảm, vô úy, vị tha đã đem phật pháp vào chốn lao tù.


-- Tiểu Lục Thần Phong 

(Ất Lăng thành, 07/22)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tháng Năm là tháng vinh danh những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho đất nước Hoa Kỳ mà trong đó tất nhiên có người Mỹ gốc Việt. Những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho Hoa Kỳ bao gồm rất nhiều lãnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn học nghệ thuật, v.v… Nhưng nơi đây chỉ xin đề cập một cách khái quát những đóng góp trong lãnh vực văn học của người Mỹ gốc Việt. Bài viết này cũng tự giới hạn phạm vi chỉ để nói đến các tác phẩm văn học viết bằng tiếng Anh của người Mỹ gốc Việt như là những đóng góp nổi bật vào dòng chính văn học của nước Mỹ. Điều này không hề là sự phủ nhận đối với những đóng góp không kém phần quan trọng trong lãnh vực văn học của Hoa Kỳ qua hàng trăm tác phẩm văn học được viết bằng tiếng Việt trong suốt gần năm mươi năm qua.
Vì hình ảnh ảm đạm, buồn sầu, như tiếng kêu đòi tắt nghẹn. Tôi, tác giả, đi giữa lòng thủ đô Hà Nội mà không thấy gì cả, không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Cờ đỏ là quốc kỳ. Mưa sa làm cho những lá quốc kỳ sũng nước, bèo nhèo, nhếch nhác, úng rữa. Một hình ảnh thảm hại. Hình ảnh thảm hại là dự phóng cho tương lai thảm hại. Và thất bại. Lạ một điều, người ta chỉ trích dẫn năm dòng thơ này, tổng cộng 14 chữ, mà không ai trích dẫn cả bài thơ, và hẳn là hơn 90% những người biết năm dòng này thì không từng biết, chưa bao giờ đọc, cả bài thơ, và tin rằng đó là những lời tâm huyết của nhà thơ Trần Dần nói về thời cuộc mà ông nhận thức được vào thời điểm 1955.
Viet Book Fest cho thấy thế hệ trẻ gốc Việt nay đã vượt qua được những ràng buộc cơm áo gạo tiền của thế hệ đi trước, để cộng đồng Việt nay có thể vươn lên với giấc mơ văn học nghệ thuật trên đất nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
Ngày 30 tháng 4 năm nay, 2024, đánh dấu 49 năm ngày Sài Gòn thất thủ vào tay cộng sản Bắc Việt (30 tháng 4 năm 1975). Biến cố này đã mở ra một tương lai đen tối cho dân tộc Việt Nam mà một trong những hệ lụy thảm khốc nhất là hàng triệu đồng bào đã bỏ nước ra đi tìm tự do, trong đó có khoảng hơn 400,000 người chết thảm giữa lòng biển cả. Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài trong 20 năm đã khiến cho hơn 950,000 bộ đội và thường dân miền Bắc chết và khoảng 600,000 lính cộng sản bị thương. Trong khi đó, có khoảng hơn 700,000 thường dân và binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa thiệt mạng, cùng với 1,170,000 lính VNCH bị thương. Phía Hoa Kỳ có 58,281 binh sĩ tử thương và 303,644 lính bị thương. Đó là chưa kể số thương vong của binh sĩ các nước tham chiến ở hai miền Nam-Bắc, theo www.en.wikipedia.org.
Thế giới đang bùng nổ nhiều cuộc chiến tranh, và đang ngún lửa ở nhiều nơi khác: Trung Đông, Ukraine, Miến Điện, Đài Loan, Biển Đông… Một thời Việt Nam cũng đã trải qua nhiều cuộc binh lửa. Khi đọc kỹ Tam tạng Kinh điển, chúng ta cũng sẽ thấy có những cuộc chiến. Bản thân Đức Phật khi mới lớn cũng học kỹ thuật kiếm cung. Trong nhiều kiếp quá khứ, Đức Phật, khi còn ở cương vị Bồ Tát, cũng đã từng ra trận. Nhiều hình ảnh ẩn dụ trong kinh điển cũng cho thấy dấu tích chiến tranh: ngựa chiến, voi chiến, áo giáp, mũi tên… Và rồi tận cùng, Đức Phật nói trong Kinh SN45.7 rằng chiến thắng vinh quang nhất chính là nhiếp phục tham, sân, si – nơi đó chính là Niết Bàn. Đó là mặt trận lớn nhất, gian nan nhất.
Vào ngày 6 tháng 12, 2023, nhà thơ, nhà văn, giáo sư văn học và nhà hoạt động xã hội được yêu mến người Palestine Refaat Alareer đã thiệt mạng trong một cuộc không kích từ Israel cùng với người anh, em gái và bốn đứa con của họ. Trong tuần để tang kể từ đó, những lời tri ân dành cho cuộc đời, sự nghiệp viết lách và các hoạt động nghệ thuật tích cực của Alareer đã tràn ngập khắp nơi trên thế giới. Nhiều lời tri ân được đăng cùng với bài thơ cuối cùng “Nếu tôi phải chết” được ông đăng trên Twitter của mình vào ngày 1 tháng 11 năm 2023. Cho đến nay, bài thơ chia tay như một điềm báo đau lòng của Alareer hiện đã được dịch sang hơn 40 thứ tiếng; được đọc trên các sân khấu thế giới và được viết trên các bức tường sân ga tàu điện; được in trên các biểu ngữ, bảng hiệu, cờ và diều, được giương cao trong các cuộc biểu tình đòi ngưng bắn trên khắp thế giới.
Nhà xuất bản của Ocean Vương trên Marketplace cũng như Ocean Vương trên Instagram của mình đã thông báo về cuốn tiểu thuyết mới sẽ được xuất bản vào tháng 6 năm 2025, Emperor of Gladness. “Emperor of Gladness” là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Ocean Vương, “kể về một năm trong cuộc đời của một thanh niên ương ngạnh ở New England, người tình cờ trở thành người chăm sóc cho một góa phụ 82 tuổi bị mất trí nhớ, tạo nên câu chuyện về tình bạn. sự mất mát và mức độ chúng ta sẵn sàng mạo hiểm để đòi hỏi một trong những ân huệ quý giá nhất của cuộc đời: cơ hội thứ hai.”
Tuyển tập “9 Khuôn Mặt: 9 Phong Khí Văn Chương” của Bùi Vĩnh Phúc là những trang sách phê bình văn học độc đáo, nơi đây 9 người cầm bút nổi tiếng của Miền Nam – Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên – được chiếu rọi trên trang giấy rất mực trân trọng, công phu, phức tạp, và nổi bật là kiểu phê bình văn học rất mực thơ mộng của họ Bùi.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.