Hôm nay,  

Sierra

06/08/202211:32:00(Xem: 4057)

Truyện ngắn

sierra 

 

Tên của tôi là Sierra. Mẹ đặt cho tôi như vậy. Tại sao lại là Sierra?

 

Tôi chưa bao giờ gặp mẹ để trả lời câu hỏi của tôi. Bà đã bay xa với ông nha sĩ chữa răng cho bà rồi, lúc tôi mới lên bốn tuổi. Từ lúc đó, cha tôi không bao giờ vui sống, từ mười lăm năm nay, không bao giờ ông hở môi nói điều gì. Trong suốt những năm đó, với một người mẹ là những tấm bưu thiếp và người cha chỉ sử dụng âm thanh để diễn đạt tư tưởng, cuộc sống của tôi không có gì là phấn khởi. Tôi đã mồ côi cha lẫn mẹ khi họ vẫn đang còn hiện diện trên cõi đời này, và tôi cũng không biết gì về thế giới quanh tôi. Tôi cứ kéo lê cuộc sống như thế, ngày qua ngày, cô đơn, xao lãng việc học hành, không bè bạn, không tình yêu. Chỉ có cái tên của tôi cho tôi nhận thức về vũ trụ xung quanh mình.

 

Trí tưởng tượng của tôi hiện ra nào những dãy núi, với đỉnh cao cho vót trên tận mây xanh, những cảnh quan nên thơ trải màu xanh ngọc bích, nào những dòng sông róc rách trong suốt, những hình bóng sặc sỡ sắc màu, tiếng nhạc cuồng nhiệt hay du dương làm đầu óc không còn u tối... Tôi thả hồn mình phiêu lưu đến một nơi chốn xa xăm.

 

Sierra. Bao nhiêu đêm dài không ngủ, tôi tự ru mình bằng cái tên này, khi lắng nghe âm vang như một nguyện ước về một tương lai rực rỡ. Đến năm lên hai mươi tuổi, niềm nguyện ước đã giúp cho tôi còn tồn tại này đã biến thành như một món nợ mà nhân loại phải trả cho tôi , nhưng không ai cáng đáng được. Ta không thể tên là Sierra để ngồi đó nhìn cuộc đời đi qua, không cảm xúc, không rung động. Ta không thể tên Sierra. Thế nhưng đó là cuộc sống của tôi. Không có đỉnh núi cao vời sừng sững, không có sông suối long lanh róc rách, không có điều mỹ quan hay nét đẹp nào dành cho Sierra.

 

Thế rồi tôi từ bỏ tất cả, nào việc học tập không dạy dỗ tôi được điều gì, nào người Cha Thầm Lặng, và tôi ném bỏ hết tất cả những bưu thiếp của bà vợ ông nha sĩ. Tôi đã bay, rồi bay nữa, rồi ngồi trên tàu hỏa, rồi nhiều chuyến tàu hỏa nữa... Tôi thú vị nhắm mắt đưa mình lắc lư theo con tàu, tận hưởng bao nhiêu cảnh quan hùng vĩ, nào màu xanh ngọc bích, xanh mượt mà của những cánh rừng bao la, xanh nhạt của quả hạnh nhân, nào những ngọn núi chót vót như bức tranh vẽ bằng than làm thành móng sắt trên nền trời xanh thẳm. Khi lên đến độ cao vời vợi, tôi ngừng chân bên một ven hồ phủ màu xanh bạc sương giá; nơi đây tôi nghe tâm hồn mình dịu lại. Đêm đó tôi ngủ trong một nhà chứa tàu thuyền, trên mình là tấm chăn được dệt bằng tay tôi mua trên tàu hỏa. Đến sáng, một con thuyền ghé vào, không có ai trên đó ngoài người lái thuyền; ông ta đến giao giỏ cá cho khách sạn duy nhất trong vùng. Sau khi trở về, người đàn ông quàng khăn màu sặc sỡ trên vai đến ngồi xuống cạnh tôi rồi đưa cho tôi một trái bắp nướng; tôi lặng lẽ gặm bắp. Mặt trời chói chang trên đỉnh đầu đang nung đốt vầng trán tôi. Mỗi khi nhìn thấy chú chim nào là là trên mặt hồ, ông ấy lại nêu cho tôi biết tên nó bằng một giọng khàn khàn nhưng êm dịu, và tên mỗi con chim như là một món quà dâng cho tôi. Rồi khi ông ấy đứng lên, lại dang tay mời tôi leo lên thuyền, và chỉ cho tôi xem từ xa kia những hòn đảo nhô lên như những bó hoa xanh mướt khổng lồ.

 

– Pacha Mama, Pacha Mama. Ông ấy vừa lặp đi lặp lại vừa đưa tay cho tôi nắm.

 

Tôi leo lên thuyền, và sau vài tiếng nổ lạch bạch như tiếng hắt hơi ***, thuyền lướt nhẹ trên mặt hồ như khảm xà cừ. Không lâu sau chúng tôi đến một bãi biển ngập tràn cát trắng bao quanh bởi từng dãy núi đồi, rồi như để tô điểm thêm cho cảnh quang kỳ diệu này, những cành cây bạch đàn khổng lồ nhẹ đong đưa theo làn gió thoảng. Ông ấy đưa tay cho tôi và chúng tôi bước về phía những túp lều vách đất và mái bằng lau sậy. Một đàn trẻ con chạy ùa về phía chúng tôi, trong những chiếc áo ấm đủ màu và đầu đội nón rơm, chúng bao quanh tôi, tay kéo vạt áo tôi, nắm chặt lất tay tôi, vui đùa, miệng thì ríu ra ríu rít.

 

Từ đằng xa, một cô bé đang nhìn chúng tôi nhưng không đến gần. Bọn trẻ con gọi " Soria, Soria", nhưng bé vẫn bất động. Những người phụ nữ chạy đến, và ông ấy vừa nói thật nhanh vừa chỉ trỏ về phía tôi. Họ kéo tôi vào thôn làng thơm mùi lửa đốt bằng củi, mang thức ăn cho tôi và tôi được nếm chén trà có vị chát. Đôi mắt họ ánh lên niềm vui rạng rỡ. Tay họ thì múa may. Tôi trải qua một giấc ngủ thật dài, đến khi thức dậy, thấy bên cạnh mình là một tô đầy bắp ngô, và cô bé Soria không chịu nhập bọn với lũ trẻ lúc chiều đang ngồi nhìn tôi ở chân giường nệm rơm của tôi. Rồi sau đó những người đàn bà mang cho tôi một chiếc váy dài bằng vải bông màu vàng nghệ, một chiếc áo cánh màu sặc sỡ, và đôi dép tết bằng rơm.

 

Cứ thế ngày tháng lặng lẽ trôi qua, cô bé Soria vẫn lẩn quẩn bên tôi. Đám phụ nữ dạy cho tôi làm việc. Đi lấy len thô từ dê cừu, giặt rửa, nhuộm màu, rồi dệt thành cuộn. Họ dạy cho tôi cày cấy, trồng trọt, tưới bón, thu hoạch. Họ còn dạy tôi tự mình nhào bột nướng bánh, nấu rau củ tràn ngập tia nắng mặt trời, được màn đêm thấm đẫm tinh hoa tươi thắm từ lòng đất ."Pacha Mama",  Mẹ Đất . Họ cũng dạy tôi cách câu cá bằng một cây lau bén nhọn. Và họ còn dạy tôi chăm sóc cây cối, dạy thêu may, hát hò. Họ cũng dạy tôi vui cười với những chuyện không đâu, không bao giờ than vãn, khắc phục sự thiếu kiên nhẫn, chế ngự cơn nóng giận, và tất cả những điều có thể xúc phạm đến cuộc sống. Về phần tôi, tôi không hề biếu tặng gì họ ngoài con người của tôi, không phải cái tôi của ngày trước, mà con người của tôi có được ngày hôm nay hoặc đúng hơn là con người đáng lẽ đã được như thế này từ xa xưa lắm rồi. Tôi không còn mồ côi nữa, mà có chị có em, có cha mẹ, và là một người mẹ, và tôi đã tìm được chỗ đứng của mình trong vũ trụ. Còn Soria thì đã cho tôi sự trìu mến của bé, đi theo từng bước chân của tôi, tết tóc cho tôi , vuốt trán tôi với đôi bàn tay nhỏ bé rám nắng vàng rôm của nó, và thì thầm cho tôi nghe tên của tôi.

 

Về cánh đàn ông thì họ làm cho cuộc sống chúng tôi thăng hoa thêm với nghề câu của họ, họ ra đi từ sáng sớm, thăm dò lòng hồ huyền bí, cho thuyền bè lướt nhẹ trên mặt nước. Họ chỉ mang về những thứ cần thiết cho bữa ăn trong ngày, tận hưởng được phúc lợi từ dòng nước ánh bạc. Sau này tôi mới biết đến Yuma, anh ấy đã quan sát tôi từ nhiều tháng qua. Vào một đêm trăng sáng vằng vặc, anh ấy đến gần tôi. Và từ đó không bao giờ rời xa tôi nữa. Anh đã cho tôi tình yêu, sự hoà hợp, sự dâng hiến. Anh đã xây một căn nhà cho gia đình chúng tôi bằng đất nung, mái bằng lau sậy, căn nhà rộng vừa đủ cho anh ấy, tôi, và Soria. Anh ấy đã chạm khắc trên một thân cây gỗ xẻ sáu chữ, rồi đem treo lên trên cánh cửa.

 

Khi có khách đến nhà chúng tôi, họ có thể nhìn thấy hàng chữ như là một câu thần chú làm nguyện ước cho một tương lai sáng lạng: SIERRA.

 

-- Constance Delange
(TháiLan dịch)

Phụ chú:

 

Hồ Titicaca là hồ cao nhất thế giới có thể đi thuyền được, ở độ cao 3,812 m (12,507 feet) trên mực nước biển. Tọa lạc trên đỉnh Altiplano trong dãy Andes trên biên giới của Peru và Bolivia. Cư dân nơi đây sinh sống chủ yếu bằng săn bắt nghề đánh bắt cá và hái lượm. Những ngôi nhà được làm bằng cây lau sậy nổi trên mặt nước của bộ lạc Unos.

 

Tác giả đã viếng hồ Titicaca và cảm tác đoạn văn trên.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau khi đưa được gia quyến sang Tàu, Trần Ích Tắc đã được Nguyên chủ Hốt Tất Liệt cấp một dinh thự tại Ngạc Châu để ở. Nguyên chủ cũng ban cho ông nhiều bổng lộc nên gia đình ông vẫn có một cuộc sống sung túc...
Chị Bông gởi tâm sự cho chị Ngân Bình phụ trách mục “Tình Chàng Ý Thiếp” của một tuần báo. Chị than thở chuyện tình cảm hai vợ chồng già nhà chị lúc nào cũng xung khắc cãi nhau. Ông ấy lát gạch vườn sau chỗ cao chỗ thấp làm chị Bông vấp ngã mấy lần đã không biết điều xin lỗi còn mắng vợ xớn xác. Chị Bông tiết kiệm ngân quỹ gia đình, ở nhà chuyên mặc đồ thừa của con gái thì ông ấy nói quần áo ngắn cũn cỡn, váy màu mè xanh đỏ như bà đồng bóng...
Hình như có cái gì đó cần phải suy nghĩ cho trọn vẹn kỹ càng? Tôi dừng lại. Bắt gặp ánh mắt của tôi, người đàn bà tấp xe vào lề, mời mua vé số. Tôi lục tìm tất cả những đồng bạc lẻ. Xác suất rất nhỏ cho hạnh phúc rất lớn, thậm chí có thể đổi đời. Xác suất rất lớn cho nỗi thất vọng rất nhỏ – nhỏ đến độ thường bị lãng quên đâu đó ở ngăn ngoài chiếc ví, trong túi áo quần…
Con gái của tôi, làm Registered Nurse trong một bệnh viện. Bữa đó, nó bước vào phòng thăm một bệnh nhân nam, cỡ tuổi gần 70, đang truyền đạm truyền nước vì gặp vấn đề tiêu hoá, đúng lúc bác ấy đang facetime nói chuyện với người ở nhà bằng Tiếng Việt. Nó sinh ra ở Canada, nhưng có khiếu Tiếng Việt, nghe và nói khá rành rẽ, chỉ có đọc và viết thì nó không biết...
Thơ của ba người: Quảng Tánh Trần Cầm, Thy An & Trần Hạ Vi...
Năm 1972 là quãng thời gian với nhiều lo âu cho tôi và các bạn nam sinh cùng lớp vì hết niên học chúng tôi phải qua kỳ thi Tú tài I, đậu hay rớt tương lai sẽ là những khúc rẽ cuộc đời...
Bốn người chúng tôi ở lại Kontum và Pleiku một thời gian khá dài, không khí miền cao nguyên dầu sao cũng trong lành và mát mẻ hơn ở Sài Gòn. Chúng tôi đi thăm lại những nơi trong thời niên thiếu đã đi qua, viếng đền Đức Mẹ Măng Đen phía Bắc Kontum với bức tượng Mẹ bị cụt cả hai bàn tay do chiến tranh. Chúng tôi trở về mái trường xưa, chủng viện thừa sai Kontum và ở lại nơi này 4 ngày, nhìn lại ngôi nhà nguyện nhỏ bé, từng lớp học thân thương, căn phòng ngủ ngày xưa chúng tôi trùm mền, lén thày giám thị, lấy đậu phộng và khoai lang deo ra ăn. Nhìn lại chốn xưa mà lòng dâng lên biết bao cảm xúc buồn vui thời học trò...
Sau khi viếng thăm Corpus Christi chúng tôi trở lại thành phố Houston, thành phố lớn nhất của Texas. Trong những ngày đầu lập quốc, thành phố Houston đã từng là thủ đô tạm thời của “nước Texas”, sau đó thủ đô chính thức được dời sang thành phố Austin...
Thằng Thảo cà chớn, cà khịa với thằng Thọ. Nó biết anh nó thích nhỏ Mai, năm rồi thằng Thọ sang nhà nhỏ Mai lặt lá mai cả mấy buổi chiều. Nhỏ Mai học chung lớp với Thọ, hai đứa thường đi học chung đường, bề ngoài thì là bạn bè nhưng tình ý đã lắm rồi, tuy cả hai còn e dè. Đứa nào cũng giả đò vu vơ nhưng làm ánh mắt đã nói lên hết, đôi khi người ta cũng bắt quả tang hai đứa ôm nhau dấm dúi hôn lén sau gốc dừa...
LTS: Trải dài suốt mấy thế hệ, từ thời kháng chiến chống Pháp, cuộc chiến hai mươi năm, và rồi tha hương, tên tuổi Phạm Duy luôn luôn gắn bó với tình tự dân tộc, là một huyền thoại trong khu làng âm nhạc, văn nghệ Việt Nam. Hiếm ai trong chúng ta không cảm thấy lòng dạt dào yêu quê Mẹ Việt Nam hơn khi nghe nhạc và ca từ của Ông. Cả một cuộc đời dài sáng tác, Ông đã để lại cho đời sau một gia sản tinh thần khổng lồ với “ngàn lời ca” mà có lẽ trước và sau Ông khó ai bì kịp. Đúng ngày này 10 năm trước, ngày 27 tháng 1 năm 2013, người nhạc sĩ nổi trôi cùng mệnh nước 93 năm đã kết thúc cuộc hành trình “trên đường về nơi cõi hết”. Nhân ngày giỗ Ông năm thứ 10, Việt Báo hân hạnh đăng tải dưới đây loạt bài của nhà văn Cung Tích Biền. Loạt bài gồm 4 phần, mỗi phần là cái nhìn ở mỗi chặng đường soi giọi bước chân của người nhạc sĩ.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.