Hôm nay,  

Bé Jessy

11/08/202221:44:00(Xem: 3253)
Truyện ngắn

HoaMauDon

 

Anatole France sinh ở Paris, là con của một chủ cửa hàng sách, từ nhỏ đã ham mê văn học, nghệ thuật. Học ở trường Collège Stanislas. Trong thập niên 1860, France tiếp xúc với nhóm Parnasse và xuất bản tập thơ đầu tiên (1873). Sau đó ông chuyển sang viết văn xuôi và thật sự có tiếng tăm khi cuốn tiểu thuyết Le crime de Sylvestre Bonnard (Tội ác của Sylvestre Bonnard, 1881) ra đời và được nhận giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp. Trong thập niên 1890, ông viết nhiều bài phê bình văn học cho Le Temps (Thời báo) và in thành 4 tập sách với tên La vie littéraire (Đời sống văn học).

Những năm cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, tư tưởng và sáng tác của Anatole France đã có những thay đổi. Ông từ bỏ lập trường người quan sát để trở thành chiến sĩ đấu tranh cho nền dân chủ. Cụ thể là trước kia ông thường miêu tả cuộc sống và con người thời kỳ Trung cổ hoặc thời kỳ suy vong của chế độ phong kiến, thì nay ông viết về các sự kiện lịch sử và xã hội đương đại, đồng thời tiếp tục truyền thống nhân văn chủ nghĩa của Rabelais và Voltaire, phê phán nền cộng hòa thứ ba của Pháp, chế giễu không thương xót những kẻ gây chiến tranh xâm lược tàn khốc. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì "những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực"…

 

A. France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, trải qua một con đường khó khăn và phức tạp từ chủ nghĩa nhân đạo ảo tưởng đến chủ nghĩa hiện thực cách mạng. Ông mất ở Tours, Indre-et-Loire.

 

Sau đây là một chương trong truyn Le livre de mon ami (Sách của bạn tôi).

 

*

 

Vào triều đại của hoàng hậu Elisabeth, ở Luân Đôn, có một nhà bác học tên là Bog – bút danh Bogus – rất nổi tiếng với chuyên luận về Những Sai Lầm của nhân loại, mà không một ai biết đến. Bogus nghiên cứu về đề tài ấy từ hai mươi lăm năm nay mà vẫn chưa xuất bản tác phẩm nào; những bản thảo chép tay của ông đã được viết sạch sẽ lại, và xếp trên các ngăn kệ ở khuôn cửa sổ, bao gồm không dưới mười chương khổ hai. Chương thứ nhất bàn về sự sai lầm khi được sinh ra, đó là căn nguyên của tất cả những sai lầm khác. Rồi trong những chương kế tiếp là sai lầm của các bé trai và bé gái, của vị thành niên, của người trưởng thành và người cao tuổi, rồi của những nhân vật theo ngành nghề khác nhau như là: chính khách, thương nhân, quân nhân, đầu bếp, nhà báo, v.v... Những chương cuối cùng, chưa hoàn thành, bao gồm những sai lầm của nền cộng hòa, nguyên nhân từ những sai lầm cá nhân và nghề nghiệp mà ra. Và đó là sự liên kết giữa những ý tưởng với nhau trong tuyệt tác ấy, và ta không thể bỏ bớt trang nào cả, vì làm như vậy sẽ làm hỏng luôn cả phần còn lại. Phần này chứng minh cho phần kế tiếp, và như thế chắc chắn hậu quả của phần cuối cùng là: việc xấu chính là thực chất của cuộc sống, và rằng nếu cuộc đời là một đại lượng thì ta có thể khẳng định một cách chính xác theo toán học là trên thế gian có bao nhiêu sự sống thì sẽ có chừng ấy điều xấu.

 

Phần Bogus thì ông đã không vấp phải sai lầm cưới vợ. Ông sống một mình trong căn nhà nhỏ cùng với bà quản gia tên là Kat, nghĩa là Catherine, và cũng là Clausentina, bởi vì bà ấy xuất thân từ Southampton.

 

Còn cô em của nhà triết học không có tinh thần siêu việt như anh mình thì đã phạm từ sai lầm này đến sai lầm khác, đó là đã trót yêu một người buôn len dạ trong thị xã, rồi lại về làm vợ ông ta và lại sinh một bé gái có tên là Jessy.

 

Và rồi bà ấy còn phạm một sai lầm cuối cùng là đã qua đời mười năm sau đó, và do đó gây ra cái chết của người lái buôn, vì ông ta không thể sống thiếu vợ mình được. Thương xót cô bé, Bogus mang bé về nuôi, và ông cũng hy vọng rằng bé sẽ là một bản mẫu về những sai lầm của trẻ thơ.

 

Lúc đó cô bé đã lên sáu. Trong suốt tám ngày đầu tiên, bé chẳng nói tiếng nào, mà chỉ khóc. Buổi sáng ngày thứ chín, bé nói với Bog:

 

“Cháu đã nhìn thấy mẹ cháu; toàn thân mẹ trắng toát, rồi cháu thấy nhiều hoa màu trắng ở nếp váy của mẹ; mẹ đã rải đầy hoa trên giường cháu, nhưng sáng nay khi thức dậy thì cháu không thấy gì cả. Cậu ơi, đưa hoa của mẹ cho cháu đi cậu.”

 

Thế là Bogus lưu ý đến sai lầm đó, nhưng trong lời bình chú của mình, ông ấy ghi nhận: đó là một sai lầm ngây thơ vô hại và có vẻ đáng yêu.

 

Rồi sau đó ít lâu, Jessy lại nói với Bog:

 

“Cậu Bog ơi, cậu già quá, và xấu xí nữa; nhưng cháu vẫn rất yêu cậu và cậu cũng phải yêu cháu thật nhiều nhé.”

 

Bog cầm bút, định ghi xuống; nhưng sau khi suy nghĩ thật kỹ, đã nhận ra rằng mình không còn trẻ nữa và chưa bao giờ điển trai cả, nên không ghi lời nói của con bé. Ông chỉ hỏi:

 

“Tại sao ta phái yêu cháu hả Jessy?”

 

“Dạ, bởi vì cháu còn nhỏ.”

 

Bog tự hỏi, có đúng là phải yêu thương trẻ thơ không? Cũng có thể lắm; bởi vì thật ra chúng rất cần được yêu thương. Khi hiểu được điều này thì sai lầm thông thường của những người mẹ cho con thơ sữa và tình thương của họ là có thể tha thứ được. A, đây là một chương trong chuyên luận của ta cần phải xem lại đây.

 

Buổi sáng ngày sinh nhật của mình, khi vào phòng chứa sách vở giấy tờ mà nhà thông thái gọi là thư viện của mình, ông ngửi thấy một mùi hương rất dễ chịu và nhìn thấy một chậu hoa cẩm chướng trên bờ cửa sổ.

 

Chỉ có ba nụ hoa thôi, nhưng ba nụ màu hồng điều đang được ánh nắng nhảy múa lướt nhẹ một cách rực rỡ. Rồi tất cả mọi đồ vật đều vui cười hớn hở trong phòng: cái ghế bành thêu hoa, cái bàn bằng gỗ hồ đào; gáy những cuốn sách cổ xưa đang tươi cười trong lớp bìa bằng da bê màu vàng hung, trong lớp da lừa và da lợn. Và rồi Bogus, héo queo quắt như chúng nó cũng nhoẻn miệng cười. Jessy vừa ôm ông ta vừa nói:

“Này nhé, cậu Bog, nhìn nè: đây là bầu trời nhe (và cô bé vừa nói vừa chỉ vào không khí màu xanh trời nhạt qua khung cửa kính viền gọng chì); còn bên dưới là mặt đất nè cậu, mặt đất tràn ngập hoa lá (rồi bé lại chỉ vào chậu hoa); còn bên dưới nữa là những cuốn sách đen thui, đó là địa ngục đó cậu ạ.”

 

Những cuốn sách to màu đen đó chính là mười tập của chuyên luận về Những Sai Lầm của nhân loại, được xếp ngay ngắn bên dưới cửa sổ, bên trong khuôn cửa. Lầm lẫn này của Jessy nhắc cho nhà bác học nhớ về tác phẩm của mình, lâu nay ông bỏ quên nó vì bận đi rong ngoài đường phố và đi dạo công viên với cô cháu. Bé đã khám phá ra ngàn vạn điều đáng yêu và cũng làm cho Bogus biết đến, vì Bogus cả một đời chưa bao giờ ló mặt ra ngoài đường. Ông đến chỗ sách vở, lật lại những tập bản thảo của mình, nhưng ông bị lạc lối mất rồi, không biết mình đang ở chương nào nữa, vì trong đó không có hoa lá cũng chẳng thấy Jessy đâu.

 

Nhưng may sao triết học đã giúp ông bằng cách gợi cho ông ý tưởng siêu nghiệm rằng Jessy chẳng làm được trò trống gì. Thế là ông bám một cách chắc chắn vào sự thật ấy, rằng điều này rất cần thiết cho kết cấu của tác phẩm văn học của ông.

 

Một hôm ông đang trầm tư mặc tưởng về vấn đề đó thì ông thấy Jessy đang ngồi xâu kim ở ngay trước bậu cửa sổ có đám hoa cẩm chướng. Ông hỏi cô bé đang tính khâu cái gì. Jessy liền trả lời:

 

“Cậu ạ, vậy chớ cậu không hề hay biết là chim én đã bay đi rồi sao?”

 

Bogus không hay biết chi hết, sự việc đó ông không thấy trong sách của Pline, cũng như trong bộ Bách Khoa của Avicenne*.

 

Jessy lại nói:

 

“Chính bà Kat nói cho cháu hôm qua...”

 

“Kat ư?” Bogus la lên, cô bé này muốn nói đến Clausentina đáng kính đây!

 

“Hôm qua bà Kat nói với cháu: Năm nay chim én bay đi sớm hơn mọi năm; điều này báo cho ta biết mùa đông sẽ đến sớm và khắc nghiệt đây. Dạ bà Kat nói với cháu như vậy đó. Và rồi cháu cũng thấy mẹ cháu nữa, mẹ mặc váy trắng, trên mái tóc thì có vầng sáng; chỉ có điều là mẹ không có hoa như lần trước mẹ đến với cháu. Mẹ nói: Jessy à, con phải lấy cái áo choàng lót da lông thú của cậu Bog ở trong rương ra nhe con, và con nhớ may vá lại nếu như áo bị hư rách. Sau đó cháu thức dậy và vừa ra khỏi phòng thì cháu lôi cái áo choàng ra rồi nè cậu; và khi thấy áo bị rách nhiều chỗ, cháu khâu lại đây cậu ạ.”

 

Và thế là mùa đông đã đến và đến rất sớm và khắc nghiệt y như chim én đã báo trước. Bogus, cuộn mình ấm áp trong chiếc áo choàng và đôi chân thì hơ trước lò sưởi, đang tìm cách sửa chữa lại vài chương của chuyên luận. Nhưng rồi mỗi khi ông đã có thể dung hoà những kinh nghiệm mới thu thập được của ông với lý thuyết về điều xấu xa của thế giới, thì Jessy lại đến làm rối ren tất cả, khi thì đem cho ông một cốc bia thật tuyệt, hoặc khi đơn thuần chỉ là khoe nụ cười và đôi mắt của bé.

Rồi khi mùa hè rực rỡ lại đến, cậu cháu thường rảo bước dạo chơi khắp các cánh đồng. Sau đó Jessy mang bao nhiêu là thảo mộc về nhà, và ông cho bé biết tên của chúng, rồi chiều đến, cô bé lại sắp xếp theo từng tính chất của chúng. Khi dạo chơi như thế, Jessy đã cho ông thấy lập luận đúng đắn và một tâm hồn thật đáng yêu của mình. Nhưng rồi, một hôm, trong khi trải ra đầy bàn những hoa lá nhặt được trong ngày, bé nói với Bogus:

 

“Cậu Bog ơi, bây giờ cháu đã biết tên tất cả những loại cây mà cậu đã dạy cho cháu. Đây là những cây lá chữa được bệnh và kia là những cây có thể an ủi nỗi đau buồn của ta. Cháu muốn giữ chúng lại, để lúc nào cũng có thể nhận biết được và cũng muốn cho người khác biệt chúng nữa ạ. Cháu cần phải có một cuốn sách thật dày và to để ép chúng vào đó cho khô.”

 

“Vậy thì cháu lấy cuốn này đi cháu.” Bog nói.

 

Và ông liền đưa cho bé chương Một của chuyên luận về Sai Lầm của Loài Người.

 

Rồi khi mà mỗi trang của cuốn sách đó đã ép một cánh thảo mộc, họ lại lấy quyển kế tiếp, và thế là, trong ba mùa hè liên tiếp, kiệt tác với bao công sức của nhà bác học đã hoàn toàn biến thành sách bách thảo.

 

Anatole France (1844-1924), Le livre de mon ami

(TháiLan dịch)

 

Ghi chú:

 

* Pline-Pliny the Elder (23-79 sau Công Nguyên), là một triết gia La Mã, tác giả của bộ Bách khoa Toàn thư Lịch Sử Tự nhiên.

*Avicenne-Avicenna: Thời kỳ Hoàng kim Hồi giáo (980-1037) là một học giả người Thổ Nhĩ Kỳ và cũng là thầy thuốc và nhà triết học đầu tiên ở thời ấy. Ông cũng là nhà thiên văn học, hóa học, địa chất học, lôgic học, cổ sinh học, toán học, vật lý học, thơ, tâm lý học, khoa học, và nhà giáo. 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.