Hôm nay,  

Ba “Giang Hồ”

20/08/202212:09:00(Xem: 3671)

Truyện ngắn

1- Ann Phong, the journey, mixed media, 40x55, 2014
Tranh Ann Phong.



Tôi đến phi trường với tấm lòng trĩu nặng lo buồn mặc dù đã biết trước những điều này sẽ đến. Ba tôi bị ung thư gan, khi phát hiện ra thì căn bệnh phát triển theo chiều hướng xấu rất mau lẹ, mỗi ngày gia đình nhận thêm vài thông tin buồn từ các bác sĩ, không còn hi vọng gì.

 

Tôi dự tính cuối tuần này sẽ mua vé máy bay về thăm ba nhưng dường như không kịp nữa, tôi nhận được điện thoại của má báo phải về gấp rút ngay hôm nay để gặp mặt ba lần cuối. Ba đang chờ đợi tôi, đứa con gái lớn nhất của ba và gần gũi với ba trong những tháng năm dài thơ ấu. Ngồi vào máy bay tôi chỉ biết cầu mong cho chuyến bay vượt không gian mấy tiếng đồng hồ sẽ trôi qua thật mau để đưa tôi về bên ba.

 

*

 

Ngày xưa, khi tôi còn là một con bé, tôi thân thiết với cha lắm, vì tôi là đứa con duy nhất. Má sanh tôi ra vài năm sau thì ốm yếu, đau bệnh gì đó không thể mang thai sinh đẻ được nữa. Má buồn rầu lắm vì e ngại không có con trai cho ba nối dõi tông đường. Ba nhiều lần nói cho má vui lòng:

 

– Con nhỏ này là con cầu tự của tôi mà, mình đừng lo chi cho mệt, sau này con nó đẻ ra sẽ là cháu đích tôn của mình, cháu nội, cháu ngoại cũng là ruột gìa máu mủ của mình chứ ai.

 

Nghiễm nhiên ba coi tôi như một thằng con trai, đi đâu ba cũng dắt tôi theo, như mỗi sáng ra tiệm cà phê của chú Lù ở đầu hẻm, ba ngồi nhâm nhi tách cà phê đen ngòm và hút thuốc, còn tôi ung dung điểm tâm với chiếc bánh bao nhân thịt nóng hổi. Khi ra về ba lại mua thêm chiếc bánh bao nóng hổi khác cho má ở nhà.

 

Ba làm thợ xây cho mấy ông cai thầu lương ba cọc ba đồng mà thỉnh thoảng vẫn phải đi xa khỏi thành phố vì nhu cầu của công việc, còn má ở nhà quán xuyến một cửa hàng tạp hóa đông khách, háng bán đủ thứ lại còn thêm vài món má tự làm như muối dưa chua, cà pháo, chưng nước màu dừa, làm mắm, nên cửa hàng tạp hóa kiêm luôn vài món thức ăn bình dân cho các gia đình trong xóm.

 

Má tôi chết vì bệnh ung thư cổ tử cung, năm ấy tôi mới 8 tuổi.

Thế là hai cha con tôi sống thui thủi trong căn nhà đã vắng đi hình bóng người đàn bà, dù chỉ là một người đàn bà đau yếu thường xuyên nhưng cũng có hơi ấm một mái gia đình, có khói bếp, có tiếng nói cười.

 

Buồn chán vì mất đi người vợ hiền đảm đang và vì thương tôi bé bỏng không ai chăm sóc, ba tôi đã từ chối những lần phải đi xây cất xa nhà, nên lợi tức càng ngày càng kém. Ba như chiếc kiềng ba chân bỗng bị gãy đi một chân, chông chênh muốn đổ. Ba sinh ra cờ bạc và nhậu nhẹt, số tiền dành dụm ít ỏi của gia đình dần dần biến mất. Hai cha con tôi là một trong những nhà nghèo mạt rệp trong khu xóm. Ba thường khoác vào người chiếc áo sơ mi ca rô, chiếc quần jean cũ mèm để tếch ra ngoài đường, đến một đám nhậu hay một sòng bài con nào đó. Trong xóm này có mấy sòng tôi đều thuộc hết, mỗi lần tìm ba tôi cứ đi vòng vòng là sẽ thấy ba. Khi vừa thấy tôi thò mặt vào, các tay bài bạn ba ai cũng biết mặt biết tên tôi, đã kêu lên trêu chọc:

 

– Ê, kiếm ba về cho má… nhỏ hả?

 

Tức thì tôi không hài lòng đáp:

 

– Dạ, đâu có má nhỏ nào, con kêu ba về đi ngủ mai còn đi làm. Khuya quá rồi.

 

Một người khác:

– Ba Giang mày là ba Giang… Hồ, khỏi cần kiếm con ơi, khi nào chán thì ba sẽ về.

 

Thật ra ba tôi tên là Giang, nhưng trong đám bạn bè bài bạc ăn nhậu của ba đã gọi ba là “Giang Hồ”, vì cả ngày lẫn đêm ba đều lang bang ở ngoài đường hơn là ở nhà. Riết rồi lối xóm cũng cứ thế mà gọi tên ba. Dù ham mê bài bạc nhưng ba cũng lịch sự với con, ba hay nháy mắt âu yếm năn nỉ tôi:

 

– Con gái, chờ ba chơi hết ván này nghe?

 

Tôi sà xuống chiếu bạc, ngồi cạnh ba nhìn vào từng lá bài của ba dù tôi không hiểu gì, nhưng trong bụng cứ thầm cầu mong những lá bài này sẽ làm cho ba thắng nhiều tiền. Khi hai cha con ra khỏi sòng bài, đêm đã khuya, con đường hẻm về nhà có một hàng bán khô nướng về đêm, là một bàn thấp kê dưới một cột điện sáng choang, chị bán hàng thỉnh thoảng quạt bếp cho than hồng lên mỗi khi cần nướng khô cho khách và mùi khô nướng thơm ngát mũi, ai đi qua mà không thèm thuồng chỉ muốn dừng chân.

 

 Ba biết tôi thích ăn mấy món khô nướng, nên dù khuya cỡ nào, dù tiền trong túi còn hay hết ba cũng dắt tôi tấp vào hàng. Hai cha con ngồi xuống chiếc ghế thấp quanh bàn, ba kêu cho ba một ly rượu đế Gò Đen nhỏ và một miếng mực nướng, còn tôi, lúc nào cũng tham lam và hoa mắt trước những món khô đủ loại bày trên bàn, vì món nào tôi cũng muốn ăn, cả trái trứng vịt lộn nóng hổi, rắc muối tiêu ăn với rau răm. Tôi muốn ăn… tất cả.

 

Hôm nào biết ba ăn bài, tôi làm sang ăn trứng vịt lộn và thêm miếng khô mực nướng thơm phức chấm tương đen tương đỏ cho thật nhiều ớt cay, vừa ăn vừa hít hà sung sướng. Hôm nào thấy ba thua bài sạch túi, tôi không nỡ ăn sang sợ tốn tiền ba, chỉ kêu một miếng khô cá đuối rẻ tiền mà …to, cái búa của chị hàng khô gĩa lên miếng cá đuối nướng tưng tưng lên vì thịt cá đuối khô và dai, nhưng giã xong thịt nó tơi bông ra nhai trong miệng rất đậm đà, cũng chấm tương đen tương đỏ, cũng thơm phức ngon lành.

Khi ấy ba sẽ kêu chủ hàng ghi sổ, bữa khác trả. Ăn xong, cha có chút mùi rượu, con có vị tương cay trên đôi môi còn thèm thuồng, ba dắt tay tôi, trong ánh đèn điện soi sáng một khỏang đường, bóng hai cha con liêu xiêu về trong đêm vắng. Những ngày cuối tuần ba cũng không ở nhà, ba đi cả ban ngày luôn. Xóm tôi ở đi ra đầu đường là băng qua một con đường nhựa, bên kia đường là một nghĩa trang lớn, sau nghĩa trang đó là một khu làng xóm khác, nhà quê hơn bên xóm tôi, dù chẳng cách nhau bao xa. Người ta vẫn gọi bên ấy là xóm Mô.

 

Xóm Mô nằm sát phía sau của phi trường Tân Sơn Nhất, chỉ cách nhau mấy lượt hàng rào kẽm gai và những buị cây cỏ rậm rạp hoang sơ. Dân xóm Mô làm nghề vườn, trồng rau và chăn nuôi. Còn bên xóm tôi là khu bình dân lao động, cả hai xóm có điểm giống nhau là nhiều nhà nghèo. Ba tôi hay qua đó để chơi thảy “bun”, vì xóm Mô có nhiều con đường làng rộng rãi bằng đất  có nhiều cát  rất thích hợp cho trò chơi này. Những trái “bun” đều bằng sắt, nặng nề, trước hết họ thảy một cục “bun” nhỏ như trái banh tennis ra thật xa về phía trước để làm chuẩn, sau đó mỗi người lần lượt thay phiên nhau thảy từng trái “bun” lớn hơn, bằng cỡ trái cam, đến càng gần trái “bun” chuẩn càng có điểm. Ai thảy trái “bun” lớn xa hơn thì thua điểm. Họ có thể thảy “bun” tống khứ trái “bun” của người khác để giành vị trí gần tiêu điểm hơn, nên cuộc chơi càng lúc càng gay cấn, ác liệt. Ba rất mê thích trò chơi này. Và tôi không bao giờ bỏ lỡ dịp theo ba sang xóm Mô, từ ngoài nghĩa địa tôi đi vào xóm bằng con đường đất, là tới một khu đất trống, dọc theo là mấy lũy tre xanh, có con trâu cột bên bụi tre đang thảnh thơi nhai rơm hay trâu đang nằm nghỉ ngơi hóng mát.

Tôi thích nghịch ngợm, lượm mấy lá tre khô thảy cho trâu xem nó có… ngu không, có ăn lá tre khô thay rơm khô không?, hay tôi chơi với lũ trẻ xóm Mô, chơi chạy đuổi bắt, chơi lò cò, chơi tạt lon.v..v.. chán chê tôi chạy lại chỗ chơi “bun” của ba, tôi đứng chen lấn với đám đông để xem cuộc thảy “bun” bất phân thắng bại khi hai người thảy hai cục “bun” gần cục “bun” nhỏ, khỏang cách tương đương nhau, mắt nhìn khó đoán được. Tôi đã từng tà lanh chạy đi nhặt mấy cọng rơm khô vất vưởng trên đường, cạnh mấy con trâu, đưa cho ba để đo cho chính xác. Nếu ba thua, tôi đợi cho ba chơi thêm ván sau và đứng tại chỗ theo dõi, hồi hộp cầu mong cho ba thắng. Ngày nào từ xóm Mô về chân tay, quần áo tôi cũng dính đầy cát bụi, tôi thường lười không tắm, buổi tối chỉ phủi phủi hai chân vào nhau, coi như sạch sẽ, vô tư  lên giường ngủ.

 

Ba tôi càng ngày càng ăn chơi đủ thứ, làm ra đồng nào “xào” luôn đồng đó, mỗi khi bên xóm Mô không có đám chơi “bun” thì ba nhảy qua đám đá gà. Ba chơi thứ gì tôi rành về thứ đó ngay. Hai cha con như thày và trò trên con đường đời, trên con đường ăn chơi chưa hề rời nhau. Nhưng cũng có hôm ba không có nơi chốn nào để đi, ba nằm chèo queo ở nhà, là lúc cha con tâm tình:

 

– Con ơi, ráng học cho chăm cho giỏi, có chữ nghĩa lớn lên không khổ như ba.

 

Tôi học dốt lại lười, với lại chiều tối về nhà không có ba tôi cô độc, tủi thân, chỉ học bài qua loa lấy lệ là gấp tập vở lại chạy đi tìm ba, những chốn ấy vui hơn. Đi học với tôi là một cực hình, tôi thường lấy cớ đau bụng, nhức đầu để nghỉ học. Ba buồn tôi về chuyện này lắm, nhưng thương con, chiều con qúa ba đành chịu thua và làm ngơ. Tôi học dốt bị ở lại lớp, tôi mắc cở đòi nghỉ học luôn nhưng ba không cho nên tôi đi học cho có lệ, thường đứng chót bảng trong lớp.

 

Tôi nũng nịu lắc đầu:

 

– Khỏi cần, con nghèo như ba cũng được, miễn là ba đâu con theo đó nè… con thích theo ba vô bàn nhậu, ăn ké mồi của ba, theo ba vô sòng bài hốt tiền giùm khi ba thắng, rồi hai cha con mình đi ăn tiệm vui thấy mồ luôn.

– Những hôm ba thua hay không tiền thì buồn lắm con à…Con từng ăn mì gói, hay khoai lang trừ cơm mà không ớn sao?

 

Tôi bắt chước một câu nói đã thuộc lòng từ mấy ông bợm nhậu của ba đã từng nói:

 

–  “Kệ bà nó, cuộc đời lên voi xuống chó” mà ba.

 

Trong đầu óc non nớt ngây thơ của tôi, tôi thấy thế là đủ hạnh phúc rồi. Ở xóm, đứa trẻ nào mà cãi nhau hay đánh nhau với tôi là coi như…tới số, vì ba luôn bênh vực tôi bất kể phải trái. Ba tới nhà đối phương của tôi hung hăng làm dữ, nhất là khi uống rượu vào thì ba càng nóng máu hơn. Thằng Minh lé đánh tôi sưng u một cục trên trán, má nó đã biết điều dẫn nó sang tận nhà tôi hết lời xin lỗi cha con tôi, dù thực ra tôi cũng chẳng vừa, cũng túm áo đánh lại thằng Minh và chửi xa xả cả cha mẹ ông bà nhà nó bằng những lời độc địa. Khi má thằng Minh dắt con ra về khỏi cửa nhà tôi, tôi đắc thắng vênh mặt đi theo ra tới cửa và nghe thấy má nó cằn nhằn con:

 

– Lần sau mày chừa đụng tới con nhà Giang Hồ này, nghe chưa? Con chả như vàng như ngọc, đụng tới nó là không yên đâu.

 

Tôi đã khoái chí vì thấy người ta “kính sợ” ba tôi như vậy đó, tôi được ba thương yêu, che chở vì như má thằng Minh đã nói tôi là vàng ngọc của ba tôi.

 

Xóm tôi có cô thợ may, chưa bao giờ lấy chồng, chẳng hiểu sao cô thương tôi qúa chừng, thỉnh thoảng cô Hoa vẫy tôi lại cho gói bánh hay bịch chè, chắc là cô mua sẵn chỉ đợi tôi đi qua là cho. Nhưng một hôm cô không đưa tôi món đồ ăn như thường lệ, mà một gói to hơn, cô dặn dò:

 

– Con mang bộ quần áo này về cho ba Giang nghe..

 

 

Chỉ có cô Hoa là trân trọng gọi ba tôi là Giang, không là “Giang Hồ” như những người khác. Tôi ngạc nhiên:

 

– Ủa, ba con đặt may quần áo tiệm cô hả?

 

Cô Hoa bối rối:

 

– Con cứ mang về là ba hiểu mà…

 

Tôi thắc mắc:

 

– Nhưng sao chỉ có quần áo cho ba còn của con không có?

 

Cô Hoa hứa hẹn:

 

– Bảo đảm mấy ngày nữa con cũng sẽ có một bộ đồ đẹp. Chịu chưa?

 

Tôi vui thích ôm gói quần áo chạy như bay về nhà khoe ba. Nét mặt ba vui vui, tôi nghĩ là ba đã ưng ý bộ đồ này.

 

Rồi tôi cũng có bộ quần áo như cô Hoa đã hứa, cô Hoa hay sang nhà tôi chơi, ba cũng hay sang nhà cô Hoa. Từ ngày đó ba ít đi hoang hơn, chăm chỉ đi làm và ở nhà.

 

Một buổi chập tối ba dẫn tôi sang nhà cô Hoa, dường như hai người đã hẹn nhau trước, cô Hoa đóng cửa tiệm may sớm, đón cha con tôi vào nhà. Cô Hoa trịnh trọng rót nước trà và lấy bánh ngọt ra:

 

– Mời anh Giang ăn bánh, uống trà.

 

Quay sang tôi, cô Hoa trìu mến:

 

– Con ăn bánh ngọt đi, có nước ngọt cho con nè…

 

Ba tôi vào đề ngay:

 

– Cô Hoa à, tôi muốn bàn với cô một chuyện quan trọng, nếu cô thương yêu tôi thì thương yêu luôn con gái tôi được không? Có như vậy tôi mới vui vẻ mà kết duyên cùng cô, còn không thì thà tôi ở giá.

 

Cô Hoa cảm động và mau mắn đáp:

 

– Anh Giang, em thương anh và thương con anh như con em mà. Tội nghiệp con nhỏ mồ côi mẹ từ nhỏ, ai nỡ lòng nào ghét bỏ.

 

Thế là sau đó ba và cô Hoa chính thức về ở với nhau sau một đám cưới nhỏ mời họ hàng và những người hàng xóm. Năm ấy tôi 12 tuổi. Có cô Hoa như có phép nhiệm màu, ba đã dần dần bỏ nhậu nhẹt bài bạc và đi làm thợ xây cất rất đều đặn, kể cả phải đi xa nhà năm bảy bữa hay một tháng. Ba yên chí vì ở nhà đã có cô Hoa lo cho tôi. Quả tình cô Hoa rất thương yêu tôi, dù có mặt ba ở nhà hay dù ba đi làm xa, thì lúc nào cô Hoa cũng đối xử như nhau. Cô gọi tôi là “con” và xưng “má”, dần dần tôi cũng gọi cô Hoa là “má” một cách tự nhiên từ đáy lòng.

 

Hai đứa em trai cùng cha khác mẹ của tôi lần lượt ra đời.

 

Biến cố 1975, gia đình tôi may mắn xuống tàu trong dòng người di tản và được định cư ở Mỹ. Ba má tôi xin đi làm hãng xưởng ngay để nuôi ba chị em chúng tôi, tôi tuy là con lớn nhất nhà nhưng tuổi đời 16, học tiếp thì không có khả năng, đi làm thì chưa đủ tuổi. Ba má cho tôi đi học tiếng Anh còn hơn ngồi không ở nhà. Hai đứa em cùng cha khác mẹ của tôi đã lớn lên ở Mỹ và ăn học nên người, cả hai đều tốt nghiệp đại học làm kỹ sư và vợ con yên ổn. Tôi cũng lập gia đình.

Ba đứa con như ba cánh chim đã tung cánh rời tổ ấm của cha mẹ, lập tổ ấm của riêng mình. Chúng tôi mỗi người ở một nơi nhưng sự liên hệ với ba má, với chị em vẫn gắn bó với nhau.

 

*

 

Tôi tất tả đi vào bệnh viện, hai em trai tôi cũng đã về, cả nhà thay phiên nhau luôn ở bên ba. Ba đã dặn dò nhắn nhủ vợ con xong, chỉ còn mình tôi. Tôi nhào tới ôm lấy tấm thân gầy guộc của ba nghẹn ngào:

 

– Ba ơi, con đây!

 

Ba hé mắt cố nhìn thấy mặt của tôi và yếu ớt đáp lại:

 

– Giờ phút này… có đông đủ vợ con… ba mãn nguyện lắm rồi, riêng với con, ba chỉ muốn nói lời cuối cùng là ba xin lỗi con thời thơ ấu cực khổ… con có giận hờn gì ba không?

 

– Sao ba lại nói thế? Con luôn hạnh phúc sung sướng khi được ở bên ba mà.

 

– Nhưng con thiệt thòi… Thời đó ba hư quá, chỉ biết ăn chơi mà không lo được gì cho con… chuyện học hành không đến nơi đến chốn… Tha lỗi cho ba…

 

Tôi khóc nức nở lên:

 

– Không bao giờ ba có lỗi với con hết. Quãng đời thơ ấu ấy con thương nhớ mãi cho tới bây giờ.

 

Đôi môi khô héo của Ba cố mỉm cười, ba không còn sức để nói thêm gì nữa. Ba tôi thiêm thiếp đi vào hôn mê. Buổi tối ba tôi đã vĩnh viễn ra đi trước sự chứng kiến của những người thân vây quanh. Má Hoa là người đầu tiên vuốt mắt cho ba, người đàn ông, người chồng mà má đã hết lòng yêu thương.

 

Khi đến phiên tôi vuốt mắt cho ba, nhìn khuôn mặt ba thanh thản, tôi tin là ba đã vui lòng, vì ba biết chắc rằng vợ con đã yêu thương ba, kể cả tôi, đứa con gái gần gũi với ba qua đoạn đường ấu thơ nghèo khó nhất.

 

Ba Giang, ba Giang Hồ của tôi vẫn là cái tên đẹp mà tôi yêu quý mãi.

 

Nguyễn Thị Thanh Dương

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhận được tin buồn nhà thơ Phan Xuân Sinh sau một cơn bạo bệnh, nhập viện vì bệnh tim mạch, hôn mê sau 10 ngày vô phương cứu chữa đã qua đời tại Texas ngày 28/2/2024. Thọ 76 tuổi...
Từ hồi trẻ, tôi đã có thói quen là những ngày giáp Tết thì bắt đầu chọn một vài bài nhạc xuân để nghe; và trong những ngày đầu năm thì sẽ đọc một cuốn sách. Thói quen “khai sách đầu xuân” có thêm một chi tiết khi tuổi quá độ “ngũ thập nhi tri thiên mệnh”: đọc một cuốn sách có chủ đề về Phật Giáo. Trong năm Giáp Thìn này, tôi chọn cuốn “Từ Mặc Chiếu Đến Như Huyễn” của một tác giả cũng tuổi con rồng: cư sĩ Nguyên Giác, cũng là nhà báo Phan Tấn Hải. Giới thiệu “tác giả, tác phẩm” dài dòng như vậy, nhưng đối với tôi, người viết đơn giản chỉ là anh Hải, một người anh thân thiết, đã từng có một thời ngồi gõ bàn phím chung trong tòa soạn Việt Báo ở phố Moran. Đọc sách của anh Hải, tôi cũng không dám “điểm sách” hay “phê bình sách”, vì có thể sẽ bị anh phán rằng “… viết như cậu thì chỉ… làm phí cây rừng thôi!” Bài viết này chỉ ghi lại một vài niềm hứng khởi khi được tặng sách, khi đọc qua cuốn sách mà cái tựa cũng đã chạm sâu thẳm vào những điều bản thân đang chiêm nghiệm.
Chúng ta thường được nghe nói, rằng mọi người đều bình đẳng trước Thượng Đế. Tuy nhiên, Thượng đế thì không ai thấy, nhưng có một thứ còn đáng sợ hơn nhân vật cổ sử đó (nếu thật sự là có Thượng Đế): đó là những trận mưa bom. Người dân Ukraine và Palestine ý thức rất rõ, vì đó là chuyện hằng ngày của họ: mọi người đều bình đẳng khi đứng dưới mưa bom. Già, trẻ, nam, nữ, trí thức, nông dân, nhà thơ, họa sĩ… đều bình đẳng: khi bom rơi trúng là chết. Cuộc chiến giữa người Palestine muốn giữ đất và người Israel từ nơi xa tới nhận phần đất mới do quốc tế trao tặng từ đất Palestine đã kéo dài nhiều thập niên. Bây giờ căng thẳng mới nhất là ở Gaza, cuộc chiến đang tiếp diễn giữa nhóm Hamas, thành phần chủ trương bạo lực của dân Palestine, và quân Israel. Trong những người chết vì bom Israel, có những người hiền lành nhất, đó là trẻ em và phụ nữ.
Thông thường khi nghe hai chữ “cô đơn” chúng ta liên tưởng đến trạng thái tinh thần yếm thế, tâm tư buồn bã, ngày tháng chán chường, thậm chí, cuộc đời trống rỗng. Có lẽ, vì ý nghĩa từ điển của từ vựng này; có lẽ, vì ảnh hưởng văn chương nghệ thuật; có lẽ vì chúng ta đã từ lâu tin như thế, mà không bao giờ đặt một nghi vấn nào. Đây là định nghĩa của “cô đơn” qua Bách thư toàn khoa Wikipedia: “Cô đơn là một trạng thái cảm xúc phức tạp và thường gây khó chịu, đáp ứng lại với sự cách ly xã hội. Cô đơn thường bao gồm cảm giác lo lắng về sự thiếu kết hợp hay thiếu giao tiếp với những cá nhân khác, cả ở hiện tại cũng như trong tương lai. Như vậy, người ta có thể cảm thấy cô đơn ngay cả khi xung quanh có nhiều người. Nguyên nhân của sự cô đơn rất đa dạng, bao gồm các vấn đề về xã hội, tâm thần, tình cảm và các yếu tố thể chất.
Vào những ngày cuối năm 2023, khi mà người Mỹ bắt đầu chuẩn bị cho những bữa tiệc Giáng Sinh, năm mới, bàn tán chuyện mua sắm, thì chiến sự giữa Isarel và Hamas chưa có dấu hiệu thuyên giảm. Trên vùng đất thánh của cả ba tôn giáo lớn, những kiếp người lầm than chỉ mong có một ngày hòa bình, một ngày không bom đạn. Cũng vào những ngày cuối năm 2023, người Mỹ bắt đầu nhìn thấy một viễn cảnh Ukraine bị bỏ rơi, phải chấp nhận đổi đất lấy hòa bình. Nhiều người Việt cho rằng Ukraine sắp là một Việt Nam Cộng Hòa khác, một đồng minh bị Mỹ bỏ rơi, nhưng sau một thời gian có thể nhanh hơn nhiều.
Vào ngày 6 Tháng 12, giới truyền thông Mỹ đồng loạt đưa tin Taylor Swift, nữ ca nhạc sĩ đầy tài năng, được tạp chí Time vinh danh là “Nhân Vật Của Năm 2023” (Person of The Year). Đây là lần đầu tiên một ca nhạc sĩ được bình chọn danh hiệu giá trị này, càng nhấn mạnh thêm sự thành công và sức ảnh hưởng của cô gái hát nhạc pop-đồng quê. Trước đây, nhiều nhân vật được Time chọn từ năm 1927 là các tổng thống Hoa Kỳ, những nhà hoạt động chính trị lỗi lạc.
Bốn câu thơ này được bố tôi (nhà văn Doãn Quốc Sỹ) ghi lại như một giai thoại văn học, làm lời tựa cho tác phẩm Mình Lại Soi Mình. Bố tôi kể rằng khoảng năm 1984, phong trào vượt biên đang rầm rộ. Một người bạn mới gặp đó, mà hôm sau đã vượt biên rồi! Vào một ngày đẹp trời, bố tôi đạp xe từ Sài Gòn qua Làng Báo Chí bên kia cầu xa lộ để thăm chú Nguyễn Đình Toàn. Đến giữa cầu thì thấy chú đang đạp xe theo chiều ngược lại, cũng định đến thăm mình ở căn nhà hẻm Thành Thái. Hai người bạn gặp nhau giữa cầu. Có lẽ chú Toàn đã nhìn những cánh đồng lúa bên Thủ Thiêm, tức cảnh sinh tình, ngẫu hứng làm ra bốn câu thơ này.
Hôm đó, một chàng đương từ Sài Gòn đạp xe tới thăm bạn ở Làng Báo Chí bên kia cầu xa lộ. Chàng vừa đạp xe tới cầu thì gặp bạn cũng đương từ bên kia cầu phóng sang dự định về Sài Gòn thăm mình...
Có một người sống trong thành phố, bận rộn, tranh đấu, xông pha, lăn lộn giữa sự phức tạp như một sinh trùng bị mắc lưới nhện vẫn phải vùng vẫy để sống, để chờ ngày bị ăn thịt. Một hôm, ông ta đi du lịch, thấy một phong cảnh đẹp đến mức lặng người, cảm thấy siêu thoát, nhận ra đạo lý của mục tiêu tại sao con người tồn tại. Nhưng vẫn phải trở về phố cũ, y như Lưu Nguyễn phải trở về làng cũ vì những lý do chính xác, vì lẽ phải của những bổn phận làm người. Ông vẽ lại phong cảnh đó trên một vách tường lớn. Mỗi khi đời giông bão, mỗi khi hồn âm u, mỗi khi trí khổ não, ông đến trước bức tranh, nhìn ngắm, ngẫm nghĩ để tìm thấy sự thanh thản, sở hữu cảm giác bình an. Ông nghe được tiếng hát “chiều nay vang lừng trên sóng.” Ông thấy được “Âm ba thoáng rung cánh đào rơi. Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời.” Hồn ông “lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan.” Những giờ phút tĩnh lặng đó, tâm trí ông “Đèn soi trăng êm nhạc lắng tiếng quên … là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi…”
Bùi Giáng qua đời tại Sài-gòn tháng 10-1998, tới tháng 10 năm này, 2023, đúng là 25 năm, một phần tư thế kỷ “Vắng bóng người Điên giữa kinh thành”. Trong tất cả các bút hiệu của Bùi Giáng, Sáu Giáng là tên hiệu dễ thương với mọi người, Bùi Giáng lại thích “anh Sáu Giáng” nhất; bởi/từ cái gốc gác quê mùa, đồi sim, ruộng lúa, tiếng gà trưa, con cò bãi nước xa, cái nền nhà lát gạch hoa, đứa con thứ sáu trong gia đình tộc Bùi, thằng bé Giáng tập bò tập đi.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.