Hôm nay,  

Halloween kể chuyện

27/10/202209:56:00(Xem: 4366)
Truyện ngắn

Jack-o'-Lantern_2003-10-31


Ở chỗ tôi làm, chị bạn người Cambodia có chồng bất ngờ qua đời vì heart attack. Cả nhóm chúng tôi hẹn nhau đến nhà quàn thăm viếng tang gia, nhưng chiều hôm ấy tôi có việc đột xuất, rồi bị lạc đường, nên đến nơi thì trời đã chạng vạng, bãi đậu xe vắng tênh. Tôi nghĩ bụng, đã đến rồi thì phải vào xem sao, may quá, chị bạn đứng ngay giữa sảnh đang nói chuyện với một nhân viên nhà quàn. Thấy tôi, chị nắm tay tôi nức nở:

 

– Cám ơn Laura đã đến, nhưng đã hết giờ thăm viếng nên quan tài đã được đẩy trở vào phòng lạnh trên lầu. Nhờ anh nhân viên dẫn Laura lên đó nghen, còn mình phải đứng đây chờ con trai mang giấy tờ bổ sung các thủ tục ma chay.

 

Giờ thì tôi mới nhìn kỹ chàng nhân viên này. Anh ta dáng rất cao to như một vệ sỹ (chắc là “tiêu chuẩn” của nhà quàn chăng?), đẹp trai phong trần nhưng tuổi tác khó đoán, đặc biệt là khuôn mặt rất hay… cười. Mà tôi cũng chả biết nói sao về nụ cười này, vì miệng anh ta rộng, hàm răng quá trắng và quá đều trên mức cần thiết, nên khi nở miệng cười như có chút đùa cợt, và chút tinh quái lạ lùng. Tôi gọi anh ta là chàng Răng Trắng.

 

Tôi làm chung với chị này chưa đầy năm, chưa gặp mặt cũng chả biết tên chồng chị ấy, hôm nay đến để an ủi chia buồn với chị. Tôi chần chừ, muốn từ chối cái vụ “lên lầu viếng xác” nhưng chị ấy nhìn tôi với đôi mắt ướt sũng đỏ hoe, và chàng Răng Trắng đang đứng dưới chân cầu thang với ánh mắt thôi miên, mỉm cười, như chọc quê tôi nhát gan, khiến tay chân tôi rụng rời, chỉ biết ngoan ngoãn líu ríu theo anh ta lên lầu.

 

Lầu rộng mênh mông, cuối giờ làm nên vắng lặng, chả thấy ma nào, (í lộn, chả thấy người nào). Ngoài trời mùa Thu mây xám cũng không u ám bằng không khí trên lầu nhà xác này. Chân tôi bắt đầu run, sàn nhà bóng lộn, tôi mà run thêm tí nữa là té chớ chẳng chơi. Rồi thì cũng đến căn phòng ngay cuối hành lang. Chàng Răng Trắng lịch sự mở cửa nhường tôi vào trước, (lịch sự cũng trên mức cần thiết luôn á). Tôi run rẩy bước vào, chàng Răng Trắng theo sau, bước tới vén tấm màn nhung màu đỏ cho tôi nhìn thấy chiếc quan tài, rồi nhẹ nhàng lui bước. Tôi vã mồ hôi hột, chưa biết phải làm gì thì nghe sau gáy mình có tiếng thở, tôi quay phắt lại thì thấy chàng Răng Trắng đang nhoẻn miệng cười:

 

–  Xin lỗi, xin lỗi, tôi quên mở nắp quan tài cho cô nhìn bạn cô lần cuối.

 

Lỗi phải gì chớ, bạn bè gì chớ, tôi nào biết mặt ngang mũi dọc người quá cố ra sao! Tôi quay qua định giải thích và lắp bắp cầu cứu van xin anh ta ở lại với tôi, nhưng anh ta đã nhanh tay mở nắp quan tài, và cũng nhanh nhẹn biến mất ngoài cửa. Tôi vẫn đứng chôn chân tại chỗ, miệng môi tê cứng, chắp tay thì thầm : “Anh gì đó ơi ơi, anh yên nghỉ nhe…” rồi làm dấu thánh giá theo thói quen, và đi lùi bước ra cửa, ào ào như một cái máy, đến cầu thang nghe tiếng chị bạn nói chuyện, tôi mới biết mình đã qua cơn sợ hãi, coi như “tai qua nạn khỏi”.

 

Thôi thế cũng xong phần chia buồn, tôi mừng rỡ nghĩ thầm, bước đến bên chị để mở lời an ủi cuối cùng và chào tạm biệt, thì chị bạn, lại một lần nữa, nắm tay tôi, mếu máo van xin:

 

– Laura ơi, con trai chị bận việc phải đi rồi, Laura có thể ở lại cùng chị theo chàng nhân

viên này xuống dưới basement nhà quàn để chọn hũ đựng tro cốt cho chồng chị nhe.

 

Nước mắt chị giọt vắn giọt dài, thảm não, Răng Trắng bỗng xuất hiện hồi nào mà tôi hổng hay biết, chàng nhìn tôi nháy mắt… mỉm cười. Tôi nỡ lòng nào nói lời từ chối chị ấy trong cơn hoạn nạn này? Lỡ leo lưng cọp thì leo tới cùng chớ sao!

 

Xuống dưới basement, cũng rộng mênh mông như trên lầu, nhưng vì dưới tầng hầm nên chỉ có ánh đèn màu vàng heo hắt, mờ nhạt èo uột, càng làm không khí thêm não nề. Đi vòng qua mấy khúc cua, mỗi khúc có một bức tranh màu tối treo trên tường và một bình hoa giả to tướng ngay chiếc bàn nhỏ, (chả hiểu họ để tranh để hoa dưới đây cho... ai ngắm?), tiếp theo là đến phòng đầy ắp các hũ các loại cho người nhà chọn lựa cho người đã khuất. Phòng này đèn tương đối sáng, tôi giúp chị ấy chọn được một hũ, giá cả phải chăng, rồi đứng chờ gần cửa trong khi chị ấy tiếp tục phần giấy tờ với chàng Răng Trắng.

 

Lúc này tôi mới nhớ ra, hồi nãy trước khi rời nhà vội vã, tôi có uống một ly nước, nên giờ muốn tìm nhà vệ sinh. Tôi cũng ráng nhịn nhưng cái bụng không chịu yên, lại thấy phòng washroom ngay kế bên, tôi bèn hỏi chàng Răng Trắng có cần chìa khoá đi washroom không, chàng bảo là cứ mở cửa vào.

 

Tôi bước qua bên ấy, lấy tay mở cửa thì thấy kẹt cứng, nghĩa là có người ở bên trong. Tôi đành đứng đợi, đúng lúc đó chị bạn và chàng Răng Trắng cũng xong xuôi mọi việc, nên tôi theo họ đi trở lại trên sảnh. Chị bạn quay qua tôi “thank you” liên tục, rồi chuẩn bị ra ngoài có con trai chị đã đến đón. Chàng Răng Trắng cũng khoác áo vào rồi theo chúng tôi, khoá cửa ra về. Tôi hốt hoảng:

 

– Anh cũng về sao? Tôi nghĩ còn người dưới nhà vệ sinh, hồi nãy tôi không vào được vì cửa khoá.

 

Chàng Răng Trắng lại cười bí hiểm:

 

– Oh, không có ai đâu! Tôi là người làm việc cuối cùng ngày hôm nay.

 

Tôi vẫn cãi:

 

– Anh nên kiểm tra lại, vì hồi nãy nhà vệ sinh khoá bên trong, tức là có người, hay là khách hàng nào đó?

 

Răng Trắng xua tay:

 

– Chị này và cô là khách cuối cùng, tôi biết mà. Còn cái vụ washroom bị khoá cửa là chuyện bình thường. Nhiều khi tôi ở lại làm tối, còn nghe cả tiếng gạt nước bồn vệ sinh nữa cơ. Quen rồi!

 

Tôi lên giọng:

 

– Anh đang đùa có phải không? Tôi không thích đâu!

 Răng Trắng lắc đầu, cười mỉm chi:

 

– Cô muốn nghĩ sao thì tùy cô đấy. Cô không biết rằng “mấy người” nằm trên kia cũng có nhu cầu đi vệ sinh hay sao, hahaha ... Mà thôi muộn rồi, chào cô nhé! Chúc một buổi tối an lành.

 

Tôi liếc chàng ta, nghiêm mặt lạnh lùng (giỡn hổng dzui gì ráo!), rồi bước xuống bậc tam cấp, chị bạn đã về từ lúc nào, cả cái bãi đậu xe mênh mông trong bóng tối mờ mờ với chiếc xe của tôi lẻ loi, vậy chàng Răng Trắng đậu xe ở đâu nhỉ? Trời sập tối, gió lạnh đến run người, nghe cả tiếng lá khô xào xạc dưới đất theo từng cơn gió. Tôi bỗng nghe tiếng bước chân phía sau mình. Mà là ai mới được chớ, vì bãi đậu xe chỉ có xe tôi? Hay là tôi tưởng tượng theo tiếng lá khô? Tôi bước nhanh hơn, thì bước chân phía sau cũng nhanh hơn, như cố đuổi theo tôi. Tôi bắt đầu chạy, thì cũng nghe tiếng chạy theo. Tôi tiếp tục chạy theo bản năng, đến bên chiếc xe thì một lần nữa, nghe tiếng thở dồn dập ngay sau gáy, tôi quay người lại thì thấy khuôn mặt chàng Răng Trắng đang nhe răng cười, đưa cho tôi một chiếc bao tay:

 

– Cô làm rớt nè! Mà sao cô chạy nhanh quá, tôi rượt theo hết cả hơi. Thôi cô về đi, kẻo lạnh.

Tôi chụp cái bao tay, chưa hoàn hồn nhưng vẫn nói lời cảm ơn, chui vào xe, rồ ga thật mạnh lao ra khỏi bãi đậu xe. Nhìn lên kính chiếu hậu, bóng chàng Răng Trắng vẫn đứng đó, lần này không nở nụ cười mà la lớn:

 

– Cô lái xe cẩn thận nhé , đường một chiều đó nghen!

 

Kim Loan

(Edmonton, Halloween 2022)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.