Hôm nay,  

Chàng nghệ sĩ

06/11/202210:05:00(Xem: 3918)
Truyện ngắn

hoangq
Chàng nghệ sĩ -- Tranh Nguyễn Đức Tuấn Đạt.

                              

 

Ở tuổi 13, cô trở thành cánh tay đắc lực của Mạ cô, phụ giúp Mạ trông coi quán cà phê. Thuở đó, cô chưa hề có chút dáng dấp của nhân vật “nàng” trong bài thơ Tuổi Mười Ba của Nguyên Sa. Cô cũng chưa được phép đọc báo Tuổi Ngọc. Cô mê mẩn chúi đầu, chúi mũi vào báo Thiếu NhiTuổi Hoa. Cô vương vương buồn, rươm rướm nước mắt, khi đọc Chiếc Lá Thuộc Bài của Nguyễn Thái Hải. Cô hồi hộp, tim đập thình thịch, lúc đọc Pho Tượng Rồng Vàng của Hoàng Đăng Cấp. Vậy thôi. Cô thuần là một đứa con nít, biết cọng trừ nhân chia nhanh nhảu, để giúp Mạ ngồi thâu tiền cà phê ở quầy. Thật ra, cô có hai người chị thuộc hàng giai nhân, đủ tiêu chuẩn làm say mê bao gã thiếu niên đa tình*. Nhưng hai chị đang bận rộn những năm cuối của trung học. Bởi thế, văn nhân tài tử đến quán cà phê, ít khi thấy hai bóng hồng, dù chỉ thấp thoáng. Mà chỉ thấy con bé lấp ló sau quầy, mắt chăm chú đọc những tờ giấy ghi đặt các thức uống, hoặc hý hoáy trên mấy hóa đơn tính tiền.

 

Chuyện bưng dọn có nhiều người phụ giúp. Cho nên, việc ngồi quầy tính tiền của cô xem ra khá nhàn nhã. Quán mở cửa từ 6 giờ chiều. Cho đến 8 giờ tối, quán lưa thưa khách. Cô tương đối rảnh rỗi, có thể đọc vội vài trang sách. Ờ, có cuốn Chiếc Bẫy Kỳ Nhông của Thụy Ý vừa về tuần này, cô không thể chờ được nữa. Cô nôn nao lật vội cuốn sách vẫn còn thơm mùi giấy mới, mùi mực in. Có người khách đầu tiên đến, ngồi bàn số một, bàn ở ngoài cùng, sát hàng rào bông giấy. Chị Mến ra tiếp, trở vào, nói với cô: “Bữa ni lại có anh nớ mở hàng”. Chị đưa cho cô tờ giấy nhỏ, do khách ghi thức uống mình muốn đặt. Cô nhìn tờ giấy: 1 ly cà phê đen. Nét chữ thật đẹp, thật lả lướt. Cô đã quen nét chữ. Đó là anh láng giềng. Ở bên kia đường, chênh chếch với quán cà phê của gia đình cô. Trong con mắt của cô, anh là người lớn, rất lớn. Anh có vẻ cao to và chững chạc hơn ông anh kế của cô nhiều. Về sau, cô biết thêm, anh ở cùng nhà với hai người em gái. Một người trang lứa với chị của cô, một người ngang lớp em gái cô. Anh hay đến sớm, ngồi nhâm nhi cà phê một mình. Sau đó, thêm vài bạn bè kéo ghế ngồi chung với anh ở bàn số một, bên cạnh chậu mai tứ quý. Có khi anh đến lúc quán còn vắng, anh không đặt thức uống, chỉ xin ngồi nghe nhạc. Anh yêu cầu bài Như Cánh Vạc Bay. Mạ cô đã đôi lần gặp anh, có cảm tình với cậu thanh niên hàng xóm hiền lành. Mạ kêu chị Mến đem cho anh bình trà. Anh uống trà, nghe thêm vài bản nhạc rồi lặng lẽ về, trước giờ quán cà phê chộn rộn, xôn xao khách hàng vào ra. Không hiểu vì lẽ gì, thấy anh, cô lại liên tưởng đến hình bìa của cuốn sách bày bán trên nhà sách của gia đình cô. Cuốn Chân Dung Chàng Nghệ Sĩ Trẻ (A Portrait of the Artist as a Young Man) của James Joyce. Cô chưa đọc cuốn sách này, nên không biết nội dung cuốn sách. Bởi, cô vẫn tuân theo luật bất thành văn của Ba Mạ cô. Nếu sách dịch, chỉ được đọc những sách ở tủ giữa, những cuốn như Tâm Hồn Cao Thượng, Vô Gia Đình... Thật lạ, sau này, nhắc đến anh, nhỏ em kế của cô cũng có ấn tượng như cô về anh nghệ sĩ. Đã mấy chục năm qua, mà hai chị em cô vẫn như còn tưởng như thấy được hình bìa của cuốn sách trên kệ tủ.

 

Thuở đó, khách hàng quán cà phê của nhà cô hình như ai tâm hồn cũng lai láng thơ văn. Các anh lớn, có lẽ đa số đang những năm cuối của trung học. Cô nghe loáng thoáng, ban C là ban văn chương thi phú. Cô đang học lớp 7, chưa có khái niệm rõ rệt về cách chia ban của trung học đệ nhị cấp. Cô nghĩ, anh giống nghệ sĩ quá, chắc là anh theo ban C. Một hôm, chị Mến nói: “Anh nớ nhờ chị đưa cho em cái ni.” Chị đưa cô tờ giấy nhỏ, gấp đôi. Còn sớm, vắng khách, cô nhẩn nha mở tờ giấy đọc:

 

Biết tóc em có mượt,

Biết mắt em có nâu,

Bởi nào dám nhìn sâu,

Ta e em sớm sầu.

 

Chữ viết của anh đẹp quá, mấy câu thơ trên tờ giấy nhỏ trông như một bức họa. Cô hiểu những từ, những ngữ trong bài thơ. Nhưng có lẽ cô còn quá nhỏ để thấm ý thơ. Cô thấy vui, định gặp anh nói lời cám ơn. Nhìn ra bàn số một trống trơn. Anh đã rời quán, có lẽ đang băng qua đường - đại lộ Quang Trung- về nhà, ôn chút bài vở cho kỳ thi tú tài sắp tới. Cô cất bài thơ của anh trong hộc tủ, rồi cô quên khuấy đi.

 

Anh nghệ sĩ vẫn đến quán cà phê vào giờ sớm. Quán đang để nhạc hòa tấu. Cô nhờ ông anh cô thay cuộn băng nhạc Tứ Quý vào máy. Cô nghĩ, anh nghệ sĩ có lẽ rất thích giọng ca Lệ Thu, Duy Trác. Cô được thảnh thơi với việc ngồi quầy cà phê hơn hai năm. Cơn lốc 1975 đã dữ dội thay đổi nhịp sống gia đình cô. Ba cô đi “học tập”. Hai chị lớn vào Sài Gòn. Mạ cô buộc lòng phải cho những người phụ giúp trong nhà nghỉ việc, vì sợ mang tiếng “tư bản”. Mấy Mạ con phải tự xoay sở, lo toan mọi việc của quán cà phê. Cô không còn thong dong ngồi ở quầy đọc truyện giờ sớm. Cô và nhóc em trai lo việc “ngoại giao” đằng trước. Mạ cô và mấy đứa em khác lo việc “nội vụ” đàng sau. “Két” cà phê chẳng có ai ngồi. Vì hai chị em bận tíu tít, lo bưng dọn lẫn tính tiền. Hai chị em như những vận động viên chạy ma-ra-tông, khuôn viên của quán cà phê là sân vận động. Mấy tháng đầu sau đổi đời, quán không có nhạc. Vì gia đình cô không dám mở nhạc vàng, mà nhà lại chẳng có nhạc xanh, nhạc đỏ của thời cuộc. Dầu vậy, anh nghệ sĩ vẫn thường xuyên có mặt.

 

Cô buồn lo, không biết những ngày trước mặt sẽ tăm tối như thế nào. Tiệm sách của Mạ cô đã bị đóng cửa. Lúc này quán cà phê là nguồn thu nhập duy nhất cho gia đình cô. Cô giấu đâu đó cái tươi tắn của thiếu nữ bước vào tuổi trăng tròn. Máy hát băng nhạc đã phải ngừng hoạt động hẳn. Khách hàng ngồi quán nhìn quanh, thấy những khuôn mặt quen, chắc là “phe ta”, thế là cất giọng, hát cho nhau nghe. Quán bây giờ chỉ còn những màn văn nghệ “tại chỗ” bất ngờ như vậy thôi. Mạ con cô nhiều khi rất hồi hộp, vì sợ tai vách mạch rừng. Nhưng những “tiểu nhạc hội” đã giúp cô đôi phút quên đi được những nhọc nhằn, lo lắng của cuộc sống. Bữa nọ, cô đưa cho anh nghệ sĩ bảng thức uống kèm tờ giấy trắng nhỏ để đặt hàng. Khi cô nhìn vào tờ giấy để biết khách hàng muốn uống gì, thì lại thấy mấy hàng chữ, chứ không phải chỉ ngắn ngủn ghi 1 ly cà phê đen. Cô mân mê tờ giấy có bức tranh thơ:

 

Có một điều khó nói,

Dễ thương nhất trên đời,

Vì em chưa chịu hỏi,

Nên tôi giữ mình tôi.

 

Cô chưa kịp xao xuyến đọc đi, đọc lại bài thơ. Tai ương đã ập xuống. Mấy Mạ con cô bị đuổi ra khỏi nhà. Ngôi nhà gia đình cô đã bao năm ở đó, khoảnh vườn phía trước trở thành quán cà phê được ba cái tết Nguyên Đán, bỗng nhiên là tài sản của nhân dân. Mấy chị em cô cầm tờ lý lịch đen như mực, không hy vọng gì được bén mảng đến trường. Gia đình cô xuôi nam, từ giã thị xã nhỏ bé nhưng nhiều kỷ niệm. Sau hai lần di cư, gia đình cô lạc nghiệp ở Âu Châu.

 

Có lẽ ý nghĩ ngộ nghĩnh của hai bài thơ ngắn đã đi vào tiềm thức của cô. Thuở tóc còn xanh, hình như cô đã đôi lần “chưa chịu hỏi”, để những điều “khó nói” vẫn mãi “dễ thương nhất trên đời”. Có lẽ nhờ vậy, đến bây giờ, gần bốn thập niên đã qua, cuộc sống của cô vẫn có được nhiều khoảnh khắc hạnh phúc. Cô vẫn giữ được mắt kính nhiệm mầu, tô hồng những giấc mộng ngắn dài của cuộc đời. 

 

Cô được biết, anh nghệ sĩ đã nhiều năm là thầy thuốc mát tay chữa bệnh. Anh cũng là nhạc sĩ có tiếng tăm trong làng văn nghệ.

 

Dù bao năm không hề liên lạc, dù hình ảnh còn lại trong trí về anh chỉ là đôi nét mờ ảo, mơ hồ, cô vẫn thật xúc động, khi biết tin anh qua đời hôm rằm trung thu năm nay.

 

Đó đây, giới văn nghệ nhắc đến anh với bài hát Màu Xanh Thời Gian. Thân hữu của anh trầm trồ nhạc phẩm Gió Bấc, bản tình ca khởi đầu mối tình vượt thời gian của vợ chồng anh. Anh ra đi để lại bao thương tiếc trong lòng gia đình, bè bạn và rất nhiều tha nhân. Người ta nhớ đến anh là vị bác sĩ từ tâm, quảng đại, là nhạc sĩ tài hoa. Có những giọng ca thời thượng trình bày nhạc phẩm của anh. Trên liên mạng, rất nhiều người ái mộ anh, đã có những chùm thơ, đoản văn viết về anh.

 

Riêng cô, tưởng nhớ đến anh qua hình ảnh chàng nghệ sĩ. Nghệ sĩ trong tâm hồn chứ không phải nghệ sĩ của màn nhung, đèn màu. Qua anh, cô đã có được ấn tượng thật đẹp về người nghệ sĩ. Anh ra đi khi tuổi đang dần bước vào ngưỡng cửa Sáu Mươi Năm Cuộc Đời. Nhưng trong trí cô, anh vẫn mãi là chàng nghệ sĩ trẻ với tấm lòng nhân ái, với mắt nhìn đầy tin yêu vào cuộc sống.

 

Cô xin thắp một nén nhang cầu nguyện hương hồn anh sớm về miền vĩnh phúc.

Vĩnh biệt anh, vĩnh biệt chàng nghệ sĩ trẻ.

 

-- Hoàng Quân

 

* Lời trích trong nhạc phẩm:

Cô Hàng Cà Phê của nhạc sĩ Canh Thân

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.