Hôm nay,  

Câu chuyện đầu đông

29/11/202213:39:00(Xem: 3721)
Tùy bút

sunset-on-snow


Không biết ở các xứ lạnh khác thì sao, chứ ở Canada, khi mấy tháng cuối năm chuyển mùa, đón mùa đông lạnh lẽo thì hễ gặp nhau, câu đầu tiên người ta nói với nhau là về... tuyết!


Mà nói về tuyết không phải để rạng rỡ vui mừng, hoặc để âu yếm thương yêu, mà là để than thở, là trách móc, là rủa thầm, là... là đủ thứ những tính từ tiêu cực của cõi đời này. Hổng phải vì người ta căm thù tuyết, vì đã là cư dân xứ tuyết mà căm thù tuyết thì ở dzới ai? Có điều, người ta quen miệng, thích bày tỏ nỗi lòng cho vơi bớt những phiền muộn “sầu đông” mà sách vở có nói rõ là “winter blues”!

 

Hồi Tháng Mười Một, trời đổ liền mấy trận tuyết đầu mùa nặng nề, tôi vừa bước đến nhà thờ, là mấy chị em trên ca đoàn xuýt xoa với những khuôn mặt... hổng dzui:

 

– Trời ơi! Năm nay tuyết đến sớm quá hà.

 

– Giờ này còn sớm gì nữa! Mà thôi, đến sớm rồi đi sớm cho thiên hạ nhờ.

 

– Úi da, sao mà lạnh tái lạnh tê, bỗng thấy tiếc Thu quá chừng chừng.

 

– Hình như năm nay... lạnh hơn năm ngoái thì phải?

 

Chị Nở ngồi sát bên tôi trong ca đoàn run lẩy bẩy, xoa hai tay vào nhau liên tục rồi hổn hển:

 

– Lạnh quá, lạnh quá em ơi, chị chịu hổng nổi!

 

Tôi ngứa miệng:

 

– Ủa, chị ở đây mấy chục năm rồi, có phải mới chân ướt chân ráo qua Canada đâu mà than với chả thở, nghe hổng lọt lỗ tai chút nào!

 

Chị liếc tôi một cái:

 

– Tại vì tuyết đổ bất ngờ, trời chuyển lạnh đột ngột nên chị hổng trở tay kịp, chưa kịp lấy quần áo mùa đông ra, trong tủ còn đầy đồ mùa hè thu, nên hồi nãy trước giờ đi lễ chị bới tung cái closet tìm đồ mặc cho phù hợp với mấy đôi giày boots, khăn quàng cổ nữa chớ! Thay ra thay vào, mất hơn nửa giờ đồng hồ, đồ đạc còn quăng đầy giường kia kìa, hỏi sao hổng bực... tuyết?!

 

– Ai biểu chị điệu chảy nước mần chi?? Cứ như em đây nè, tuyết có rơi bất cứ lúc nào, trời trở lạnh bất cứ lúc nào, em chỉ cần lấy ra cái quần Jeans, thêm cái áo thun tay dài, rồi khoác cái jacket dày cộm, đôi bao tay, và bất cứ đôi boots nào trong tầm mắt là xong, chẳng cần chọn lựa cho tiệp màu fashion, chỉ cần ấm thôi.

 

– Em nói y chang như ông xã chị vậy đó!

 

– Chứ sao! Em thấy mùa đông cũng có... điểm lợi, em mà cần chạy ra chợ hay đi đâu chớp nhoáng là khỏi cần thay đồ luôn á!

 

– Là em hổng... mặc đồ hả ?

 

– Bậy nà, ý của em là cứ để nguyên xi quần áo đang mặc ở nhà, rồi khoác chiếc jacket lên người, xỏ đôi boots là an toàn trên xa lộ.

 

– Trời! Em đúng là “cùng hội cùng thuyền” với ông xã chị. Có lần chị đang nấu phở, ngoài kia tuyết rơi mịt mùng, chị nhớ ra thiếu chanh và hành ngò, bèn sai ổng chạy đi mua. Ổng đang nằm xem tivi với bộ pyjama liền ngồi dậy, tròng thêm chiếc áo khoác, thậm chí hai đôi vớ lủng dưới chân ổng cũng không “ke”, đút chưn vô đôi giày, là xong. Chị la ổng, bắt ổng thay đồ cho lịch sự, ổng nói ra ngoài đường mùa này ai thấy được quần áo bên trong của mình đâu chớ, cứ áo khoác giày boots, ai cũng như ai, còn lo đẹp xấu làm gì.

 

– Ảnh nói đúng đó chị! Nhiều lúc em ra đường ông xã em còn nhìn không ra em nữa kìa, vì em còn đội mũ len, đeo đồ che tai, khăn quàng cổ và khăn che miệng, chỉ lòi hai con mắt thôi á!

 

Vậy đó, những câu chuyện mùa đông xứ lạnh chỉ quanh quẩn vậy thôi, năm nào cũng như năm nào, cũng những điều quen thuộc lập đi lập lại, nhắc tới nhắc lui với nhau, vừa có chuyện để ... tám, giết thời giờ và để có chút niềm vui nụ cười, xóa tan cái buồn cái băng giá của đất trời, mà nỗi buồn đó có tên hẳn hoi nhe quý vị, đó là winter blues, mà tên chính thức là SAD (Seasonal Affective Disorder ).

 

Mùa đông, ngày ngắn đêm dài, chúng ta đổi giờ vào tuần đầu tháng 11, lùi lại một giờ nên trời mau tối, ánh nắng yếu ớt, có khi cả ngày không thấy mặt mũi ông mặt trời, không gian u ám tĩnh mịch một màu xám bao la, khiến người ta dễ bị trầm cảm, nhất là những người cô đơn, tâm hồn yếu đuối. Các chuyên gia tâm lý vẫn nhắc nhở mọi người, nên có những hoạt động để tránh bị bệnh SAD. Đọc sách, xem phim, đi bộ ngoài trời hoặc trong nhà, nói chuyện với bạn bè người thân, tham gia winter sports như skating, skiing, ai đang lẻ loi thì ráng tìm người... hẹn hò (dù là on-line, qua hết mùa đông thì... chia tay), tích cực hơn với sinh hoạt cộng đồng như chùa chiền nhà thờ, ăn uống healthy điều độ, giữ gìn sức khỏe bằng cách mặc đồ ấm, và quan trọng nhứt là giữ tinh thần vui vẻ lạc quan mỗi ngày, rồi thì mùa đông cũng sẽ qua như những mùa khác của cuộc đời này.

 

Cuối tuần rồi, chị Nở lại phone tôi:

 

– Loan ơi, giáo xứ mình có bác Lành mới qua đời, thứ năm đi đọc kinh lễ phát tang và cầu nguyện nhe em.

 

– Dạ, em có đọc trên bản tin Giáo Xứ trên Facebook rồi chị.

 

Chị Nở thở dài:

 

– Dự báo thứ năm tuyết rơi 20 cm đó cưng, lái xe cẩn thận nhe, sao “trời buồn người càng buồn cho mây nước thêm mênh mang” y như bài hát của Lam Phương vậy trời?!

 

Tôi biết chị Nở thuộc loại “mong manh dễ vỡ” nên tôi phải chọc cho chị cười:

– Vậy chị đi shopping chưa nà?

 

Sở dĩ tôi hỏi như vậy, vì chị Nở từng nói với tôi rằng, hễ mỗi lần trong xứ có người qua đời, nhất là mất đột ngột, hoặc vì bệnh hiểm nghèo khi tuổi chưa già lắm thì chị liền đi shopping, chẳng phải vì chị... vui mừng hớn hở trên nỗi đau của người khác, nhưng chính là để giải tỏa nỗi buồn, vì chị cảm nhận rõ ràng cuộc đời phù du, đời nguời thoáng qua như giấc mộng.

 

Chị đáp:

 

– Bác Lành qua đời ở tuổi 95 thì có lý do gì cho chị giận đời đâu cưng! À mà thôi, vì trời mùa đông u ám quá, chắc chị cũng đi shopping, coi như là phương pháp phòng ngừa bệnh SAD.

 

– Ừa, em đồng ý, chị đi liền đi, thấy tiệm nào có đồ Sale thì nhớ nhắn em.

 

– Chị khác em chỗ đó, chị thích là mua liền, “chờ Sale chờ đến bao giờ”! Qua tuổi 60 sắp về hưu rồi, chị quan niệm phải tận hưởng tất cả trong khả năng của mình cho phép em ơi. Keo kiệt làm gì, hà tiện làm chi, nay mai tuổi già ập đến, bệnh này bệnh kia réo gọi, có muốn tung tăng mua sắm, thoải mái đi chơi đó đây cũng khó à nghen. Em hãy theo gương “chị điệu” của em nè, quần áo mặc đẹp, fashion, dù là đi ra đường... đổ xăng, đi ra đầu xóm lấy thư, đi bỏ rác, dắt chó đi dạo trong khu phố, chị luôn ăn mặc tươi đẹp chỉnh tề, người ta nhìn thấy mình đẹp cũng làm họ yêu đời hơn, vui hơn, có phải? Chị có cái “bệnh” hễ mặc đồ xấu, đồ cũ là chị mất tự tin, rồi stressed, nên chị phải mặc đẹp, phải trang điểm, phải đeo nữ trang ... để cảm thấy hạnh phúc!

 

Ôi, chị Nở say sưa nói liên tu bất tận, mấy lần tôi tính mở miệng chen ngang mà không có cơ hội. Tôi cũng thấy vui, đó là cách chị giảm stress, chị sẽ không than thở trách móc rầu rĩ với tuyết nữa, và có lẽ cái closet của nhà chị đã sẵn sàng một rừng áo quần đủ cho chị thay đổi suốt bốn tháng mùa đông, đủ kiểu dáng, đúng fashion như cái máu “điệu tới bến” của chị.

Cuối cùng, chị Nở cũng dừng nói, để... thở, và chuẩn bị cúp phone, tôi cũng kịp phát biểu:

 

– Dạ chị ơi, em sẽ nghe lời chị, theo gương chị, kể từ nay, em lấy hết các nhẫn hột xoàn (giả) ra đeo, mỗi ngày đeo một cái cho thiên hạ lé mắt chơi, cho mùa đông thêm... lấp lánh!

 

Kim Loan

Edmonton, đầu Đông 2022

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.