Hôm nay,  

Đi tìm người thương binh

11/01/202309:03:00(Xem: 3512)
Truyện

binh

Gần cuối năm, trời đêm mát dịu. Sân Nhà Thờ đã vắng. Những ngọn đèn giăng mắc trên hang đá, trên các cành cây, trông như những vì sao nhấp nháy. Ngôi nhà thờ quen thuộc với Ny từ mấy mươi năm nay, không chỉ là những buổi lễ vang tiếng kinh cầu, mà còn là những phút im lặng đứng trước hang đá ngoài sân. Còn nữa, là những buổi tặng quà. Những người được mời lãnh quà đến từ khắp hướng. Họ là những thương phế binh.

 

Ny còn muốn nán lại khi đã phụ dọn dẹp xong sau buổi lễ tặng quà. Ny đứng đây, muốn nhớ lại những cảm nhận của mình khi phát quà cho các chú các bác, khi đối diện với họ. Ny không ngăn được sự xúc động trước những người thiếu mất một phần thân thể. Trong niềm xót xa ấy, Ny nghe một nỗi khao khát muốn biết về thời trẻ trung của họ, khi họ là những con người toàn vẹn, lăn xả trên mặt trận, cống hiến tuổi xuân cho đất nước. Và trong lúc họ ngã xuống, gửi vào đất một phần thân thể, họ ra sao? Những ngày tháng đó họ sống thế nào? Lứa tuổi của Ny so với họ là quá nhỏ. Ny biết gì về chiến tranh, biết gì về những người lính? Có một chút! Ny biết một vài cựu quân nhân sống trong xóm đạo nơi Ny sinh ra và lớn lên. Nhưng đó chỉ là một phần của không gian và thời gian. Khi họ rời khỏi chiến trường thì Ny chỉ mới bước vào năm đầu tiểu học.

 

Ny ngồi xuống thềm đá, bâng khuâng nhớ lại lời một anh tình nguyện viên hỏi mình lúc trưa:

 

“Tại sao chị chọn đến giúp những buổi tặng quà?”

 

Ny đáp:

 

“Có nhiều lý do, nhưng phần lớn là do tôi cảm kích trước tấm lòng của các Thầy, các Cha, tôi muốn phụ giúp họ để làm công việc tri ân thương phế binh. Còn với các vị thương phế binh, tôi chỉ nghe qua lời kể của cha mẹ tôi, và qua sách vở.”

 

Anh tình nguyện viên nói:

 

“Có lẽ tôi cũng vậy. Lứa tuổi của mình… biết về họ quá ít!”

 

*

 

Ny về đến nhà, vào phòng, mở tủ sách của mình. Cái tủ sách không để ở phòng ngoài, bởi chỉ một mình Ny dùng. Nó như một cái kho báu của riêng Ny. Trong đó, có những quyển sách Ny giấu lại, có những quyển Ny đi lùng mua. Từ lúc lên năm, Ny đã được mang danh hiệu là “con mọt sách” bởi lòng ham mê đọc sách. Ny sớm biết đọc, biết viết. Ny đọc sách dành cho nhi đồng, thiếu nhi. Rồi thì sách truyện viết cho tuổi học trò, cho tuổi mới lớn. Một ngày, Ny hết hồn khi thấy ba mẹ mang hết sách trong nhà đi nộp cho phường khóm. Ny đã lén trộm một vài quyển sách Ny thích, giấu kỹ. Dần dần về sau này, khi lớn lên, Ny đã đi mua sách ở các tiệm bán sách cũ, gầy lại cho mình một tủ sách. Ba mẹ biết, không trách mắng, trái lại, thỉnh thoảng ba mẹ cũng mượn sách của Ny để xem.

 

Ny ngồi lặng yên, nhớ đến tuổi nhỏ của mình. Ny lớn lên theo cái tủ sách, hay nói cách khác, cái tủ sách lớn lên theo Ny. Bỗng nhiên, một cách không chủ ý, Ny giở lại những trang sách cũ, viết về người thương binh. Ny băn khoăn, tự hỏi cây bút nữ mà Ny yêu mến bây giờ ra sao. Từ lâu, Ny coi như chị đã là người thuộc về quá khứ. Nhưng những gì chị viết về người thương binh Việt Nam Cộng Hòa hầu như không bao giờ cũ đối với Ny. Ny say sưa đọc lại những trang sách. Đó tạm là lời giải đáp cho những thắc mắc của Ny. Hầu như chỉ cần nhắm mắt lại, để cho những câu chữ của tác giả thấm vào ý tưởng của mình, là có thể đã được sống phần nào trong cái không gian, trong cái thời gian ấy. Giờ đây, Ny có thêm cái cảm giác đau đớn của người đang bị thương, đang quỵ ngã, đang nhức nhối với vết thương từng ngày chờ bình phục, cũng như sự hụt hẫng vì mất đi một phần thân thể quen thuộc. Và, cũng như tác giả, Ny thấy mình đang ngồi trong một chiếc xe lăn. Ny khám phá qua nhiều tác phẩm, cây bút nữ mà Ny yêu mến đã nhắc nhiều đến một cái tên là Danh.

 

Và thế là Ny có một công việc mới: đi tìm Anh Danh. Ny nghĩ ngay đến danh sách mà các Cha đang nắm giữ. Có thể nào trong số ấy sẽ có những chú, những bác tên Danh không? Cùng với một chìa khóa nữa là nơi trú ngụ của người ấy ở vùng Phước Tuy, Bà Rịa-Vũng Tàu. Năm bị thương: 1973, sau khi hiệp định Paris được ký kết. Ny tự cười mình vì đã coi yếu tố trong truyện như là thật. Nhưng có lẽ điều tác giả lặp đi lặp lại yếu tố đó đã tạo một ấn tượng sâu sắc trong Ny. Hơn nữa, Ny từng tham gia những buổi tặng quà cho Quý Ông Bà Thương Phế Binh, nên nếu biết được có một “Anh Danh” thật sự trong số họ thì cũng là một điều có ý nghĩa cho Ny.

 

*

 

Rất nhiều người mang tên Danh, nhưng ở Phước Tuy thì lại không có. Nhiều lúc Ny tự chê mình lẩm cẩm. Nhưng có một cái gì đó thôi thúc Ny tiếp tục tìm kiếm. Tình cờ, nghe một người bạn khoe đã tìm được người quen qua Facebook, Ny nghĩ mình sẽ thử. Nhưng không có ai trùng khớp với những yếu tố mà Ny có được. Ny lại tự cười mình đã đi gõ cửa một căn nhà mà người mình tìm không hề vào đó.

 

Nhưng có lẽ Trời thương Ny, trong khi lướt tìm trên internet, Ny đã đọc được những bài mới của cây bút mà Ny yêu mến. Không phải trong Facebook, mà qua những trang báo điện tử. Báo điện tử, nghe ngộ ngộ. Nhưng là báo có thật, báo mà mọi người đều có thể đọc mà không cần phải nhịn ăn quà sáng để dành tiền mua như các học sinh ngày xưa. Và cũng nhờ là “điện tử” nên chuyện gì cũng hóa dễ dàng. Chỉ cần gõ vào mục “Liên Lạc” của các trang báo đó là có thể hy vọng “gặp” được tác giả mình muốn tìm.

 

Và Ny chỉ có thể email qua lại với cây bút nữ ấy, vì hai người ở hai nửa trái đất, xa lắc lơ.

 

“Hồi còn bé thật bé, em đã đọc truyện của chị. Khi đó, có người nói chị đã chết. Thời ấy, chuyện gì cũng dễ xảy ra. Em tin. Nhưng lớn lên, em nghĩ biết đâu chị vẫn còn. Và chị “còn” thật! Thế giới internet thật dễ thương! Em vui khi thấy chị vẫn viết.”

 

“Chị rất vui khi biết thì ra có một “con mọt sách” lén đem sách chui vào tủ áo để đọc. Lúc đó thì em đáng bị phạt vì dám đọc sách người lớn.”

 

“Hi hi, thật ra thì không phải sách người lớn như cách nghĩ thông thường. Em thích đọc sách người lớn do chị viết.”

 

“Ôi, nếu em có thể nghe được tiếng thở dài của chị lúc này! Chị chỉ lớn so với tuổi của em thôi! Văn của chị lúc đó là dành cho tuổi vào đời, tuổi của học sinh, sinh viên. Mà chị có làm được bao nhiêu đâu, khi tất cả mọi thứ đều vào trong đống lửa.”

 

“Nhưng qua chị, em cảm nhận được một góc của chiến tranh. Em hiểu phần nào những người lính, đặc biệt những người thương binh. Em từng ước gì em bằng tuổi chị, có thể nếm trải những giờ phút song hành với nỗi đau trong cuộc chiến.”

 

“Không bao nhiêu đâu em! Những gì mình nếm trải quá ít, chỉ là bên lề, không thể sánh bằng sự gian khổ và hy sinh to tát của họ. Trò chuyện với em, chị như sống lại với hình ảnh những người thương binh trong màu áo xanh của bệnh viện, với những vết thương đỏ ngầu, nhầy nhụa, những chỗ nhiễm trùng vàng khè, những lỗ sâu hoáy đen ngòm do đạn chui vào, những chỗ cụt mất bàn tay, bàn chân. Chứng kiến và săn sóc cho họ, lòng chị đau xót lắm em à! Và họ đã từng là những người trẻ tuổi đầy sinh lực và nhiệt huyết, dầy dạn trên chiến trường, từng băng rừng lội suối, xung phong trên những ngọn đồi ngụt khói, cắm cho được lá cờ thiêng trên vòng thành vừa chiếm lại. Họ đã cống hiến nhiều quá!” 

 

“Và chị đã được nhìn thấy họ khi họ còn trẻ.”

 

“Đúng vậy, em gái!”

 

“Chị ơi! Em muốn biết về anh Danh. Anh Danh có phải chỉ là nhân vật trong truyện, hay là một người có thật ngoài đời?”

 

“Em nghĩ sao?”

 

“Em tin là có ngoài đời, vì nó đi kèm với một địa danh.”

 

“Địa danh sao?”

 

“Dạ, em thấy chị nói đến Phước Tuy, nên suy đoán…”

 

“À đó là chị trích những bức thư từ Phước Tuy, của một người bạn lính, hay chính xác là một người bạn thương binh.”

 

“Vậy chị có liên lạc với anh ấy sau năm 75 không?”

 

“Chị có viết thư gửi bưu điện. Thời đó không có điện thoại riêng, cũng chưa có email, internet. Nhưng không có thư hồi âm em ạ! Rồi chị ra trường, đi làm việc xa, chị không có dịp tìm lại anh ấy.”

 

“Chị ơi, em có điều kiện tìm tên anh ấy trong danh sách những người nhận quà từ Nhà Thờ nhưng không thành công. Vậy bây giờ chị còn địa chỉ không? Em sẽ giúp chị tìm lại.”

 

“Chị còn.”

 

Ny nhận được địa chỉ. Ny ngẩn người. Anh có một cái tên không phải là Danh. Danh chỉ là chữ lót!

 

*

 

“Ảnh trước ở đây với cha mẹ. Ảnh đi lính hồi Mùa Hè Đỏ Lửa. Rồi sau Hiệp định Paris, vẫn chưa hết chiến tranh, ảnh bị thương, cưa mất một chân. Ảnh ngồi xe lăn, sau thì làm chân giả. Ảnh nộp đơn thi lại Tú Tài, chăm học lắm! Nhưng sau “ngày Ba Mươi tháng Tư” khoảng vài tuần thì ảnh đi đâu không biết. Cha mẹ ảnh bán nhà rồi cũng đi luôn. Chúng tôi chỉ biết chừng đó.”

 

Ny đứng trước ngôi nhà xưa kia là nhà của Anh Danh. Mấy mươi năm qua rồi, người biết Anh Danh chắc cũng không còn nhiều. Tìm ra được câu trả lời này, Ny không biết là mừng hay thất vọng. Có một điều là, đến tận ngôi làng nơi Anh Danh từng ở, Ny tưởng tượng mình nhìn thấy một chút hình bóng Anh Danh mỗi ngày lăn xe ra vào căn nhà, chan hòa sinh hoạt với chòm xóm. Đến một hôm anh về nhà, mang theo nỗi vui được gắn chân giả. Ny như “thấy” được nỗi vui ấy, một nỗi vui xót xa, như Hạ Huyên đã từng được chia sẻ cùng với Danh cách nay nhiều năm trước.

 

“Chị ơi, em đi tìm Anh Danh, chính ra là đi tìm cảm xúc cho chính mình, sau những tác phẩm của chị, và sau những chuyến công tác của em. Và em đã có một chút.”

 

“Cám ơn em đã thay chị tìm đến quê của Anh Danh. Chị hy vọng nếu anh ấy còn sống, sẽ có ngày mình biết được tin của anh ấy. Em gái của chị không phải đã có một chút, mà đã có rất nhiều đó! Chị nhìn thấy những Anh Danh thời trẻ, những Anh Danh của quá khứ. Em thì nhìn thấy những Anh Danh trong hiện tại.”

 

*

 

Vâng, Ny đã tìm thấy những Anh Danh trong hiện tại, qua các nếp nhăn trên gương mặt, qua màu da đen sạm nắng gió vì dãi dầu kiếm sống, qua giọng nói khàn đục, qua những vết sẹo đã chai cứng quắt queo. Anh Danh của Hạ Huyên còn tiếp tục ước mơ trở lại lớp học, còn về sống ở quê nhà sau khi để lại một phần thân thể trên chiến trường. Còn vô vàn những “Anh Danh” khác, ngày Ba Mươi tháng Tư đang nằm trong bệnh viện, bị đuổi ra ngoài trong khi vết thương còn rỉ máu. Họ dìu dắt nhau đi về đâu? Có nhiều người kiếm sống lây lất trong góc chợ, trên bến xe, bến phà, đàn hát những bài nhạc lính cũ. Họ hầu như đã bị bỏ rơi.

 

Những Anh Danh trẻ của Hạ Huyên không phải thần thánh. Như Hạ Huyên viết, họ cũng biết vui biết buồn. Bị thương, bị đau thì họ khóc. Có người thương binh trẻ đau quá còn kêu “Má ơi!” Họ rất thật. Họ không hô khẩu hiệu. Khi là thương binh thì vậy. Xuất viện, nếu còn có thể được, họ tiếp tục ra mặt trận. Khi bị bỏ lại phía sau cuộc chiến, họ cũng là những người ở lại mảnh đất bị cướp đoạt. Họ tha phương cầu thực ngay trên quê hương của mình, nhưng sống ra sống. Họ nâng niu, cất giữ bộ quân phục mà họ đã khó khăn tìm mua lại, để nhớ thời họ đi chinh chiến. Họ không mấy khi mặc. Không phải vì họ sợ bị cấm mặc. Mà vì họ trân quý nó, không muốn lạm dụng nó. Họ đã vinh hạnh khoác lại bộ quân phục để đến tiễn đưa Người Nhạc Sĩ Lính yêu mến của họ vừa qua đời trong khu xóm nghèo, giơ tay nghiêm trang chào vĩnh biệt ông.

 

Thời trai trẻ của họ, những Anh Danh, đã qua rồi! Nay họ ở khắp mọi nơi, Phước Tuy, Đà Lạt, Sài Gòn, Cần Thơ, Cà Mau, Huế, Quảng Trị… Nhưng họ sẽ không bao giờ quên họ đã từng là Người Lính, mang trong tim câu “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm” và sống với tinh thần đó.

 

– Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong thế hệ ca nhạc sĩ trẻ của nền âm nhạc Sài Gòn trước 1975, cặp uyên ương Lê Uyên - Phương có một chỗ đứng đặc biệt, độc nhất. Sự nghiệp sáng tác của nhạc sĩ Phương kéo dài từ đầu thập niên 1970s ở Miền Nam sang đến tận Hoa Kỳ sau 1975, cho đến khi ông mất vào năm 1999. Nhiều ca khúc Lê Uyên Phương cho đến nay vẫn chưa được chính thức phổ biến, phát hành. Để tưởng nhớ 25 năm ngày mất của người nhạc sĩ tài hoa, ca sĩ Lê Uyên sẽ tổ chức đêm nhạc chủ đề “Lê Uyên Phương 25 Năm Cuộc Đời– Tình Yêu – Âm Nhạc” tại Saigon Grand Center thành phố Fountain Valley vào ngày 7 tháng 12 2024.
Cộng đồng người Việt tị nạn ở Mỹ và trên toàn thế giới đang tiến tới một cột mốc quan trọng: 50 năm ly hương kể từ sau biến cố Tháng Tư Đen 1975. Nhiều tác phẩm trong các lĩnh vực văn học nghệ thuật được thực hiện có liên quan đến sự kiện này. Tại đại hội điện ảnh Viet Film Fest 2024 vừa được tổ chức vào đầu tháng 10, bộ phim đoạt giải Trống Đồng dành cho phim dài xuất sắc nhất là New Wave của nữ đạo diễn Elizabeth Ai. Bộ phim tài liệu này ghi nhận lại một hiện tượng âm nhạc quan trọng của thế hệ người Việt trong thập niên 1980s: dòng nhạc new wave. Thế nhưng bộ phim không chỉ dừng lại ở khía cạnh âm nhạc, mà đào sâu hơn vào mâu thuẫn trong những gia đình Việt Nam trong những ngày đầu định cư ở Mỹ.
Thời gian là thứ được người ta ví như vó câu, vụt một cái là biến mất, chẳng bao giờ trở lại, có muốn níu cũng vô ích. Họa sĩ Phan Nguyên không dại chi mà níu, anh ghi lại rồi mặc cho nó sổng ra chạy đi. Tôi muốn nói tới anh, một người đã âm thầm lưu giữ những mảnh vụn thời gian của giới văn học nghệ thuật bằng cách ghi lại trong “Mượn Dấu Thời Gian”, tên tiếng Pháp là “Emprunt Empreinte”. Anh tâm tình: “Là một “sân chơi” rất riêng của Phan Nguyên từ khá lâu với giới văn nghệ sĩ, thân hữu gần xa, trong và ngoài nước, không phân biệt tuổi tác, sắc tộc, tôn giáo, chính kiến gì cả, miễn là họ đã có những tác phẩm hay, đẹp để lại cho đời và cho thế hệ mai sau, miễn là họ đã đóng góp cái phần tinh túy nhất của con người, của chính mình cho văn học nghệ thuật Việt Nam hay thế giới nói chung”.
Để ta cùng vượt thời gian, không gian. Một trăm năm nữa, nếu có cơ duyên hội ngộ, vẫn chuyện trò tự nhiên, vui vẻ, như từng gặp gỡ tự bao giờ. Vui vẻ, vì cả đời chỉ thích viết văn, làm thơ. Viết văn, trừ trường hợp bất khả kháng, tôi vẫn cố gắng viết vui, cho bạn đọc đỡ nản. Nay tự nhiên lâm cảnh ngặt nghèo, phải đem chuyện vật lý, khoa học, Vũ trụ càn khôn, vừa nhàm chán vừa khó hiểu, ra trình làng… nên càng phải cố viết vui, viết giễu. Để may ra vớt vát được phần nào.
Trong lãnh vực sáng tác từ ngôn ngữ cho đến tác phẩm trực quan, các chuyên gia và các tác giả đang quan tâm đến khả năng sáng tạo của AI, sự hiện diện và tác dụng của trí thông minh nhân tạo sẽ làm thay đổi quan niệm và phương pháp, kỹ thuật và nghệ thuật truyền thống. Các chuyên gia về máy học dự đoán rằng AI sẽ "viết" một cuốn sách bán chạy nhất của tờ New York Times vào năm 2049 (Grace và cộng sự, 2018; Hall, 2018). Lãnh vực sáng tạo tính toán đã được xác định là biên giới tiếp theo trong nghiên cứu AI (Colton & Wiggins, 2012) và có ý nghĩa hấp dẫn đối với ngành công nghiệp văn học. Các thuật toán có khả năng tạo ra ngôn ngữ tự nhiên (Gatt & Krahmer, 2018) Các nghiên cứu về sáng tạo tính toán tập trung vào việc xác định các yếu tố cốt lõi của các hình thức sáng tạo (như văn học, nghệ thuật thị giác và âm nhạc) theo góc nhìn thuật toán, với mục đích sao chép hoặc kích thích sự sáng tạo của con người (Turner, 2014; Besold và cộng sự, 2015; Veale và cộng sự, 2019).
1)Tưởng niệm MC Phạm Phú Nam 2)Nhớ về cuộc di cư 1954. 3)Chiếu Phim Sài gòn trước 75 4)Chào đón minh tinh Kiều Chinh đến San Jose. Chiều ngày thứ bẩy 27 tháng 7 năm 2024 vừa qua chúng tôi đã có dịp nhân danh Viet Museum kịp thời trả những món nợ cho lịch sử. Số là anh chị em chúng tôi vẫn còn nhớ về chuyến di cư 1 triệu người từ Bắc vào Nam 70 năm xưa.
Anh Cao Huy Thuần vừa qua đời lúc 23giờ 26 ngày 7-7-1924 tại Paris. Được tin anh qua đời tôi không khỏi ngậm ngùi, nhớ lại những kỷ niệm cùng anh suốt gần 60 năm, từ Việt Nam đến Paris. Anh sinh tại Huế, học Đại Học Luật Khoa Sài Gòn (1955-1960) và dạy đại học Huế (1962-1964). Năm 1964 anh sang Pháp du học. Năm 1969 anh bảo vệ Luận án Tiến sĩ Quốc Gia tại Đại Học Paris, và giảng dạy tại Viện Đại Học Picardie cho đến khi về hưu.
Khi lần đầu tiên gặp một họa sĩ, tôi thường có khuynh hướng tìm vài nét tương đồng để liên tưởng đến một họa sĩ nổi tiếng nào đó thuộc những thế hệ trước. Với Nguyễn Trọng Khôi, tôi cũng làm như vậy nhưng trừ vài nét chung chung như được đào tạo ở trường ốc hay năng khiếu, tôi không tìm được gì đậc biệt. Nguyễn Trọng Khôi (NTK) không giống một họa sĩ nào khác.
Hồ Hữu Thủ cùng với Nguyễn Lâm, Nguyễn Trung của Hội Họa sĩ Trẻ trước 1975 còn sót lại ở Sài Gòn, họ vẫn sung sức lao động nghệ thuật và tranh của họ vẫn thuộc loại đẳng cấp để sưu tập. Họ thuộc về một thế hệ vàng của nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Bất kể ở Mỹ như Trịnh Cung, Nguyên Khai, Đinh Cường… hay còn lại trong nước, còn sống hay đã chết, tranh của nhóm Hội Họa sĩ Trẻ vẫn có những giá trị mang dấu ấn lịch sử. Cho dù tranh của họ rất ít tính thời sự, nhưng cái đẹp được tìm thấy trong tác phẩm của họ lại rất biểu trưng cho tính thời đại mà họ sống. Đó là cái đẹp phía sau của chết chóc, của chiến tranh. Cái đẹp của hòa bình, của sự chan hòa trong vũ trụ. Cái mà con người ngưỡng vọng như ý nghĩa nhân sinh.
Westminster, CA – Học Khu Westminster hân hoan tổ chức mừng lễ tốt nghiệp của các học sinh đầu tiên trong chương trình Song Ngữ Tiếng Việt (VDLI) tiên phong của học khu. Đây là khóa học sinh đầu tiên ra trường và các em sẽ được ghi nhận tại buổi lễ tốt nghiệp đặc biệt được tổ chức vào thứ Ba, ngày 28 tháng Năm, lúc 6:00 giờ chiều tại phòng Gymnasium của Trường Trung Cấp Warner (14171 Newland St, Westminster, CA 92683).


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.