Hôm nay,  

Tôi làm MC Tết

18/01/202317:38:00(Xem: 4180)
Tùy bút

IMG_3788


Trong một dịp quen biết tình cờ với một chị người Việt Nam, biết tôi từng là cô giáo nên chị mời tôi đến dạy Việt Ngữ bên Hội Người Việt, vì có một cô mới chuyển đi thành phố khác, rất cần tôi “điền vào chỗ trống”. Thôi thì máu nghề nghiệp nổi lên, tôi liền nhận lời, “đóng thế” thì đã sao, đâu phải lúc nào cũng phải làm nhơn vật chánh!

 

Rồi tới mùa hè, cũng cái chị ấy, rủ tôi đi dự buổi Đại Hội Thường Niên của Hội Người Việt Edmonton. Tôi chả hiểu đại hội đó là đại hội gì, mà nghe chị ấy nói đi “cho dzui”, hơn nữa, tôi cũng đang là cô giáo của Hội, thì cũng nên đi cho biết với người ta. Đến nơi mới biết, đó là buổi bầu Ban Quản Trị cho nhiệm kỳ mới. Tôi ung dung ngồi uống trà nhâm nhi bánh ngọt nghe người ta đề cử người này người kia. Bỗng dưng, chị bạn ấy đứng lên nói một hồi, rồi xướng tên tôi, rồi cả phòng vỗ tay rần rần. Tôi ngơ ngác và bối rối, xin được trình bày, rằng tôi chưa có kinh nghiệm và vì hoàn cảnh gia đình nên không nhận. Mọi người thay phiên nhau khuyến khích, tôi lại hay cả nể, cuối cùng đành bất đắc dĩ chấp nhận bước vào “chính trường” của Ban Quản Trị Hội Người Việt Edmonton. (Vậy mà sau đó còn ở lại thêm… vài nhiệm kỳ nữa!)

 

Nhiệm vụ đầu tiên tôi được giao là làm MC cho Hội Tết Trung Thu. Tôi hoang mang lo lắng, trong khi ông xã tôi tỉnh bơ:

 

– Vậy là họ đã nhìn thấy tiềm năng… nói nhiều của em, mà xưa nay em nói ở nhà chỉ có vài người nghe, bây giờ cơ hội của em đã đến. Em đừng làm bộ mắc cỡ, khiêm nhường rồi từ chối thì sau này chớ có hối hận!

 

Nghe lời chồng khuyến khích (dù có chút mỉa mai), tôi dồn mọi công sức cho buổi “ra mắt” đầu tiên này. Tôi soạn bài kỹ lưỡng, tìm hiểu đầy đủ tài liệu, chuẩn bị công phu và buổi MC diễn ra êm xuôi, trôi chảy, không có sự cố gì. Từ đó, các lần MC tiếp theo như “diều gặp gió”, ngày Quốc Hận, Lễ Hai Bà Trưng, Giỗ Tổ Hùng Vương, Ngày Quân Lực VNCH …và nhất là MC Hội Chợ Tết Cộng Đồng. “Tiếng lành” đồn xa, bay về Nhà Thờ Công Giáo của tôi, Cha xứ liền  “xí” tôi cho Văn Nghệ Tết của giáo xứ tổ chức tại nhà hàng, nhà thờ, cũng như các events khác của giáo xứ.

 

Có thể nói, Hội Chợ Tết là dịp đồng hương người Việt hội ngộ sau một năm bận bịu làm việc, số người tham dự rất đông, nên công việc của người MC vừa là một niềm vui vừa là một trọng trách lớn lao. Thường thì Hội Tết làm vào cuối tuần, nếu năm nào Tết rơi vào ngày thường, Hội Tết phải làm trước hoặc sau đó, đôi khi cách biệt cả vài tuần vì còn phụ thuộc vào việc mướn chỗ và book ca sỹ từ Mỹ qua. Có năm Hội Tết của Cộng Đồng và Hội Tết của Nhà Thờ liên tiếp nhau hai cái weekends, coi như tôi “chạy show” (miễn phí) mệt nghỉ.

 

Người ta thường nói “ba ngày Tết” nhưng đối với chúng tôi, Tết bắt đầu từ vài tháng trước. Đó là những lần họp hành bàn bạc, phân chia công việc cho từng nhóm. Tôi và hai người bạn thân thuộc nhóm phụ hợ hậu cần, đi xin donation từ các nhà hảo tâm trong thành phố. Bao nhiêu lần họp là bấy nhiêu lần “bộ ba” chúng tôi group-texting liên tục để trao đổi ý kiến, cung cấp tin tức tới tấp bất kể sáng sớm hay đêm khuya, không kịp trả lời, có khi nửa đêm đọc text mà tôi bật cười vì những câu đùa giỡn, khiến ông xã tưởng tôi đang lên cơn… mộng du.

 

Rồi đến chuyện Báo Xuân của Hội. Tôi chỉ tham gia viết bài là chính, nhưng anh Hội Trưởng nhờ tôi phụ đọc và duyệt lỗi chính tả, rồi đề tên vào “Ban Biên Tập” cho… hùng hậu. Là thành phần trong Ban Biên Tập cũng có nhiều kỷ niệm. Vui nhất là giai đoạn gấp rút khi đang layout, chuẩn bị mang đi in thì nhận được bài viết vào phút chót dù đã quá hạn nhận bài cả tháng. Khổ nỗi, người gửi bài muộn lại là người “quen tên quen tuổi” trong cộng đồng, bỏ thì thương vương thì tội, báo hại anh trưởng Ban Biên Tập phải vội vàng tìm chỗ hở để ráng “nhét vào” cho vừa lòng nhau, ôi nhức cái đầu! Cuối cùng là chuyện book ca sỹ cho buổi Dạ Vũ Đêm Xuân, có khi phải book trước một năm mới được người ca sỹ như ý muốn. Chuyện book và deal với ca sỹ cũng là một câu chuyện dài, nhiêu khê, khi gặp phải ca sỹ “chảnh”, và tôi cũng đã từng… chảnh lại, để chứng tỏ rằng, không phải chỉ có giới ca sỹ mới biết bận rộn!

 

Vậy đó, công việc liên tiếp công việc, nên những ngày đông giá quên hết lạnh lẽo. Tôi đã cảm khái, sửa lại mấy câu thơ của Hồ Dzếnh để dành cho riêng mình:

 

Tết bận quá, tôi buồn sao kịp!

Này làm thơ, dạ vũ, hội Xuân

Lặng trong tiếng pháo lâng lâng

Tôi nguyện: sẽ mãi tri ân xứ người

 

Sau những chuỗi ngày chuẩn bị, đến ngày “lên sóng” tôi thao thức cả đêm. Hội Chợ Tết bắt đầu 11 giờ trưa nhưng chúng tôi đã lo từ sớm. Ai trang trí, ai chuyên chở phụ kiện, ai lo âm thanh ánh sáng, ai lo đón khách, mỗi nhóm một việc nhịp nhàng ăn khớp, đúng với câu “một cây làm chẳng lên non/ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Nhóm ẩm thực chúng tôi chộn rộn tại văn phòng Hội Người Việt, làm hàng trăm ổ bánh mì thịt đãi khách mời và các thiện nguyện viên, các ban văn nghệ…vừa làm vừa “tám chuyện” náo động cả gian phòng. Xong xuôi đâu đó, tôi mặc chiếc áo dài mới may, lái xe đến địa điểm Hội Tết, vừa đến cổng đã nghe lòng rộn rã nao nao. Hai cây mai cây đào thật to ngay cửa ngõ, điểm những tấm thiệp và tràng pháo đong đưa, người người đổ về càng lúc càng đông trong tiếng nhạc Xuân tưng bừng cả hội trường: “Ngày Xuân nâng chén ta chúc nơi nơi, mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi…” Tôi đứng ngắm nghía ngay bàn tiếp tân, mỗi người ghé qua xin tờ báo Xuân, có người mở ra xem tại chỗ, có người cất vào giỏ xách để dành đọc sau. Tôi âm thầm sung sướng vì có… bài viết và thơ của tôi trong tờ báo mà mọi người đang nâng niu trên tay.

 

Đến giờ khai mạc, MC bước lên sân khấu, nói lời mở màn, tiếp theo là phần đốt pháo múa lân truyền thống. Trong làn khói pháo mịt mờ, hoà với tiếng trống lân, tôi rưng rưng mơ màng, cứ ngỡ mình đang đứng trong căn nhà cũ nơi cố hương, sau tiếng pháo giao thừa, con chó Kiki vẫn cúp đuôi chạy rối rít trong nhà, chị em tôi vẫn lấy tay che lỗ tai vì sợ tiếng pháo, rồi đợi cô bạn réo gọi ngoài cổng đi hái lộc đầu năm, mà nước mắt xúc động tràn lên khoé mi.

 

Những tiếng vỗ tay đã đưa tôi về thực tại, chương trình Hội Xuân tiếp tục với những màn trình diễn văn nghệ của các hội đoàn, cùng với các gian hàng thức ăn, trò chơi ngày Tết, chụp hình lưu niệm, người người qua lại nói cười thăm hỏi nhau, tay bắt mặt mừng trao nhau những lời chúc tụng năm mới an lành, hạnh phúc.

 

Đến chiều thì tôi thật sự mệt mỏi (vì mang giày cao gót cho dáng đi… dịu dàng, thướt tha), mới nhớ ra cả ngày chỉ có ly cà phê và miếng xôi lót dạ buổi sáng. Chạy về nhà kịp nghỉ ngơi chút đỉnh, ăn vội miếng cơm, rồi lại thay quần áo mới cho đêm Dạ Vũ Mừng Xuân. Nửa đêm về sáng tan tiệc trở về, cảm xúc vẫn dâng đầy, phơi phới ru tôi vào giấc ngủ êm đềm không mộng mị.

 

Dù sao, tôi cũng đâu dễ quên những mùa Xuân quê hương. Cái Tết đầu tiên tại Canada, đêm giao thừa tôi nằm khóc ướt cả gối vì nhớ nhà, nhớ bạn bè, nhớ người thương và những kỷ niệm thanh xuân mỗi độ Tết đến Xuân về. Rồi tôi cũng tự nhủ, chúng ta đã quyết định bỏ lại quê nhà đang bị đảng cộng sản tàn phá, ra đi tìm tự do là chấp nhận đánh đổi, mất mát, mang theo hoài niệm nhớ nhung.

 

Ngày nay, đón Tết vẫn có đầy đủ bánh mứt, mai vàng pháo đỏ nơi xứ người. Nhưng dù là California ấm áp, Texas nắng vàng, hay Canada tuyết phủ, nơi nao cũng chỉ là đất mới, quê mới mà thôi. Bởi chúng ta ai cũng biết, “ăn Tết” đâu chỉ đơn giản ăn miếng bánh tét bánh chưng, ngọt ngào miếng mứt gừng mứt bí, mà còn phải “ăn” cả cái không khí, “ăn” cái hồn Tết, hồn quê… như tôi đã viết những vần thơ:

 

Tôi thích ngắm mỗi lần trời nổi gió

Cây soan trước nhà lá rụng lan man

Để ao ước thời gian đi nhanh nữa

(Chưa biết buồn theo chiếc lá thời gian!)

 

Là mỗi độ Xuân về tôi vẫn biết

Lá sẽ khô theo cơn gió cuối năm

Chợ sẽ vui những sắc màu ngày Tết

Người rộn ràng mua sắm, phố thêm đông …

 

Ước mong một ngày không xa, đất nước sạch bóng cộng sản, người dân ấm no yên bình, tôi sẽ đưa cả gia đình, đặc biệt là đám con cháu về thăm quê vào đúng ngày Xuân để mọi người cảm nhận một cái Tết “authentic” đúng nghĩa.

 

Mà biết đâu, giữa bầu trời Xuân nơi quê nhà ấy, các con cháu (và cả tôi nữa) lại bỗng thấy bồi hồi xuyến xao vì nhớ những mùa Tết tuyết rơi của Canada?

 

Kim Loan

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.