Hôm nay,  

Dẫn Ngoại đi sắm Tết

19/01/202319:00:00(Xem: 3867)

Truyện

 

DP-cho-hoa-Phuoc-Loc-Tho-2022-00



Chàng tên Jerry, nhưng ngoại nàng kêu chàng là thằng Rỳ. Chàng cao lêu nghêu, da trắng tóc vàng mắt xanh. Chàng hay kể với nhà nàng về bà ngoại quá cố của chàng, cũng là người Việt Nam. Qua lời kể của  Jerry, ai cũng cảm nhận được lòng yêu thương đằm thắm của chàng dành cho ngoại chàng.

 

Nàng tên Julie, nhưng ngoại nàng kêu nàng là con Lì. Nàng đứng vừa tới ngực chàng, da vàng tóc đen mắt nâu.  Julie là cục cưng của ngoại nàng. Suốt thời thơ ấu cho đến bây giờ, ngoại luôn là người hùng và luôn là vùng vịnh bình yên của nàng trong những cơn sóng gió. Đời Julie nhiều sóng gió lắm, kể miết  không hết. Sóng gió đầu tiên là việc lên năm tuổi nàng vẫn còn mặc tã. Chính ngoại là người kiên nhẫn giúp nàng vượt qua nỗi sợ hãi để vào restroom mà pee pee, poo poo. Việc ngoại cứu nguy mỗi lần nàng bị ba má phạt đứng im ở góc tường. Việc nàng bị mấy đứa trong lớp ăn hiếp, ngoại đã dắt nàng tới trường “mắng vốn”.  Việc ngoại giúp Julie và Vivian làm hòa nhau.

 

Rồi sau đó là chuyện nước mắm và Jerry. Lần đầu tiên Jerry bước vào nhà nàng, gặp mọi người đang ăn hủ tiếu giò heo. Chàng được mời ngồi vào bàn. Nhưng chàng cứ ngần ngừ rồi lấy điện thoại ra. Và bỗng dưng chàng chỉ chén nước mắm:

 

– Cái nầy thúi.

 

Ba há to miệng, mắt trợn ngược, mặt xanh lè, tưởng bị mắc cổ vì cục giò heo. Jerry xém bấm 911. Má ho đúng chín cái, trề môi dài gần chín inches. Julie khóc hu hu chạy lòng vòng quanh bàn ăn. Ngoại cười ha ha, thong thả chấm cục giò vô chén nước mắm, thong thả thưởng thức:

 

– Nó đâu rành tiếng Việt, cũng như tao đâu rành tiếng Mỹ. Rỳ nè, mai mốt con sẽ thấy nước mắm có mùi thơm. Mèn ơi, ngon quá chừng ngon Rỳ ơi! Bữa ăn không có nước mắm coi như mất ngon đó con. Ngoại dặn nè, lần sau đừng te rẹt biểu ông Gồ dịch nghe con.

 

Còn chuyện tiếng Việt của Jerry. Sau lễ đính hôn, ba hỏi Julie:

 

– Cái “dzụ” tiếng Việt của Jerry tới đâu rồi con? Ba muốn rể của ba phải nói được tiếng Việt rành rọt.

 

– Dạ khá lắm ba.

 

– À, tuyệt đối không được kêu ba là you nghe chưa!

 

– Dạ.

 

Má:

 

– Ha ha... Cô Tám mới kể với má, cô tới gặp nó về bệnh mất ngủ. Nó hỏi cô: “Cô… cô... có thích đi chụp… chụp cái... cái đầu óc không? Cô có... có thích đi gặp cái... cái ông... ông bác sĩ buồn... buồn ngủ không?” Nó lắp bắp lâu lắm mới được chừng đó. Cô Tám thấy tội nghiệp quá, bác sĩ cứ nói tiếng Mỹ đi, tui hiểu mà. Nó trả lời: “Dạ... dạ... cô làm... làm ơn kiên nhẫn với... cháu. Cháu muốn... muốn tập nói tiếng Việt để được mau cưới con Julie.”

 

Nàng:

– Má ơi! Jerry nói được vậy là giỏi rồi!

 

Má nghiêm giọng:

 

– Nhưng má muốn nó giỏi hơn để xứng đáng đã từng là học trò của má.

 

Ngoại nãy giờ ngồi im quan sát tình thế, bỗng đằng hắng rồi chậm rãi:

 

– Bây được voi đòi tiên. Tao thấy con Lì mà lấy được thằng Rỳ là có phước lắm đó.

 

Nàng chạy tới ngồi trong lòng ngoại, hun ngoại cái chụt:

 

– Hoan hô ngoại. Ngoại là số một! Ngoại nè, Rỳ kêu: “Nhoại nhoại” nghe thiệt dễ thương ngoại hén.

 

Ngoại tiếp, vẫn chậm rãi và thêm phần nhấn mạnh từng tiếng nghe rất oai:

 

– Tao thấy trong mấy đứa theo con Lì, thằng Rỳ số một, không phải vì nó là bác sĩ mà tao khen. Rỳ hiền lành, lễ phép, biết điều ăn ở. Sở dĩ trước đây tao làm thinh vì không muốn ý kiến của tao ảnh hưởng tới quyết định của con Lì. Bây hiểu chứ? Bây không thấy từ hồi đeo con Lì, tết năm nào thằng Rỳ cũng đem về nhà nầy những cành mai rất đẹp đó sao? Nhà nó tận LA, lái xe cả tiếng đồng hồ xuống đây. Chỉ có sức mạnh của tình yêu thằng Rỳ mới chịu khó như vậy. Với lại, tại sao giữa biển người mênh mông trên xứ Mỹ nầy tụi nó bỗng gặp lại nhau rồi lại thương nhau? Duyên tiền định đó nghe bây.

 

*

 

Hồi lâu rồi, một người quen giới thiệu má Julie dạy tiếng Việt online qua Skype cho Jerry. Mỗi tuần hai buổi, mỗi buổi hai tiếng. Trước màn hình, bên nầy, má nàng ở Orange County; bên kia, Jerry, trên Los Angeles. Mỗi lần má dạy, nàng hay núp sau lưng má coi Jerry học. Jerry bấy giờ chừng chín mười tuổi, (cũng cỡ tuổi nàng), nghịch kinh khủng, lười học kinh khủng. Cứ chừng mươi phút, Jerry xin đi restroom, lâu thiệt lâu nó mới quay lại học. Có bữa nó than mỏi mắt, kéo cái áo lên trùm kín đầu. Có bữa webcam bỗng ngưng hoạt động, nó biến mất tiêu. Có bữa nó đánh máy trên ô “chat” rằng nó không nghe được gì hết. Má nàng biết tỏng tòng tong trò nghịch phá của thằng nhỏ nhưng rất kiên nhẫn, vẫn tiếp tục dạy cho nó. Ừm, mà cũng tại mẹ Jerry (cha Mỹ, mẹ Việt) trả lương má khá hậu hĩnh.

 

Thời gian đầu chưa quen, Julie thỉnh thoảng phải bò ra ngoài để cười cho đã vì Jerry đọc tiếng Việt ngộ đời lắm. Giọng Jerry ngang phè phè. Dấu nặng đọc lơ lớ như không dấu. Còn dấu hỏi dấu ngã thì không biết phải tả ra sao. Má, miệng đọc, tay giơ lên giơ xuống, sang phải sang trái, kiểu như nhạc trưởng, để góp phần luyện dấu cho Jerry.

 

Lần nọ, Jerry bỗng phát hiện có đứa núp sau lưng cô giáo. Sau thoáng ngạc nhiên thú vị, thằng nhỏ méo miệng, lè lưỡi, trợn mắt chọc con nhỏ. Con nhỏ tức cái mình cũng lè lưỡi trợn mắt méo miệng chọc lại thằng nhỏ. Cô giáo đuổi con nhỏ ra ngoài cho thằng nhỏ học. Nhưng Jerry, một tràng tiếng Anh xen vài tiếng Việt, đại khái xin cô giáo cho con nhỏ ở lại, nó sẽ ngoan, sẽ chăm học.

 

Giữ đúng lời hứa, Jerry chịu khó học và làm bài tập ở nhà. Cô giáo ra luật: Hai đứa phải nói chuyện với nhau hoàn toàn bằng tiếng Việt, nếu không nói được thì làm điệu bộ. Nhờ có Julie, Jerry tiến bộ rất nhanh.             Nhưng chỉ chừng được một năm, Jerry không học nữa.

 

Năm tháng trôi qua, chuyện thằng Jerry đã đi vào quên lãng. Đâu ngờ, Jerry và Julie gặp lại nhau trong thư viện của trường UCLA. Chàng và nàng mừng mừng tủi tủi, dắt tay nhau ra ghế đá sân trường để tha hồ nhắc lại chuyện xưa. Ngồi mỏi, hai đứa nằm dài trên cỏ, say sưa cười cười nói nói đến nỗi quên cả việc phải vào lớp học. Từ đó chàng lẽo đẽo đi bên cạnh nàng, sung sướng vì lắp bắp được chút đỉnh tiếng Việt. Có lần xe nàng bị hư, chàng mừng rỡ đưa nàng về nhà. Chàng được gặp cô giáo dạy tiếng Việt mà hồi xưa chàng chỉ thấy trên màn hình máy tính.

 

Đặc biệt chàng được gặp bà ngoại của nàng. Chàng kinh ngạc tự hỏi, sao bà ngoại nàng giống bà ngoại chàng kinh khủng! Họ là chị em ruột? Chàng bèn đem tấm hình ngoại chàng cho ngoại nàng coi nhưng ngoại nàng nói không hề biết người trong ảnh.

 

*

  

Bữa đám cưới, lúc ra mắt đàng gái, Jerry nói bằng tiếng Việt một mạch suôn sẻ chứ không lắp bắp như thường lệ:

 

– Dạ thưa nhoại, dạ thưa ba má. Con cám ơn nhoại và ba má cho con con Julie. Con rất cám ơn cám ơn.

 

Tối đó, trong tiệc cưới ở nhà hàng, chú rể Jerry bỗng nhờ người hầu bàn kiếm cho chàng chén nước mắm! Chú rể, mặt hếch lên ra điều tự hào ta đây sành ăn nước mắm: “Bữa ăn không có nước mắm coi như mất nhon!” Cô dâu Julie cười toe, mặt vênh lên ra điều ta đây giỏi dạy chồng.

           

Sau tuần trăng mật, vợ chồng Julie về thăm ba má và ngoại. Bước vào cửa, Julie khoe liền:

 

– Ngoại ơi! Ba má ơi! Tết nầy Jerry sẽ hát bài Ngày Tết Quê Em để giúp vui trong chương trình ca nhạc của hội chợ Tết.

 

Mọi người há hốc. Kinh ngạc.

 

Ngoại:

 

– Có phải bài Tết Tết Tết Tết đến rồi…?

 

Julie tủm tỉm:

 

– Dạ đúng rồi ngoại.

 

– Lại cái trò nghịch ngợm hả Lì?

 

– Ngoại ơi, Jerry hát hay thiệt mà. Ông xã ròm ơi, hát cho ngoại với ba má nghe đi.

 

Jerry hí hửng ra đứng giữa nhà biểu diễn: Tết Tết Tết Tết đến rồi…            Mọi người nín cười, vỗ tay khen nức nở. Ngoại nhanh nhẹn rút một nhánh hoa trong bình đem tặng ca sĩ Rỳ. Jerry xúc động ôm hun ngoại rồi cúi gập người cám ơn khán giả. Julie tỉnh queo:

 

– Ai bị bồ đá nằm liệt giường mà nghe Jerry hát là đứng dậy ngay, đúng không ngoại?

 

Ngoại trợn mắt nhìn Julie:

 

– Cái con Lì nầy...

 

Jerry quay sang vợ, ngơ ngác hỏi:

 

– Cái con Lì nầy, bồ đá nghĩa là gì hả?

 

*

 

– Bọn con dẫn ngoại đi sắm tết nhen ngoại.

 

Má:

 

– Nghe có lý đó con. Ba má bận làm dưa món, kiệu chua... Còn chuẩn bị gói bánh tét nữa.

 

Cặp vợ chồng mới cưới đưa ngoại lên tận chợ hoa LA để ngoại lựa mai. Đó là một trong những chợ hoa lớn nhất nước Mỹ, nằm trên đường Wall, trong khu downtown LA. Ngoại luôn miệng hít hà:

 

– Mèn ơi! Chợ rộng quá chừng rộng. Bông nhiều quá chừng nhiều. Cám ơn các cháu của ngoại.

 

Rồi ngoại săm soi lựa bốn nhánh mai trĩu nụ. Hai đứa năn nỉ. Ngoại ơi, ngoại lấy thêm đào, cúc, và nhiều loại hoa khác đi ngoại. Chất đầy cả xe truck cũng được. Hoa ở đây rẻ lắm ngoại à. Chúng con tặng ngoại mà. Ngoại đừng từ chối. Ngoại ơi ngoại nhận cho chúng con vui. Thì coi như chúng con mừng tuổi ngoại. A, tiền già của ngoại hả? Thì để mừng tuổi cho bọn con. Vậy nha ngoại. Dạ, dạ lát nữa mình sẽ ghé Bolsa.

 

Sắp Tết. Khu Little Saigon tưng bừng nhộn nhịp. Đường sá chật kín xe và đầy người đi bộ. Chợ Tết ở Phước Lộc Thọ đông vui chưa từng thấy. Nắng xuân tỏa sáng khắp nơi. Tiếng Việt rôm rả khắp nơi. Nhạc xuân rộn ràng khắp nơi. Tiếng cười, tiếng nói... Các gian hàng rực rỡ sắc màu, tràn ngập các loại kẹo mứt, bánh chưng, bánh tét, trái cây...

 

Ngoại ghé ngay vào gian đầu tiên, chọn mua xấp phong bì đựng tiền mừng tuổi in chữ Việt “Chúc mừng năm mới”. Ba bà cháu hòa trong dòng người nô nức sắm Tết. Ba bà cháu đều mặc áo dài. Bà lụm cụm, chậm chạp giữa hai đứa, nhưng miệng luôn mỉm cười hạnh phúc. Julie trong chiếc áo dài màu hồng vừa vặn thân hình nhỏ nhắn. Còn Jerry lêu nghêu với chiếc áo dài màu xanh biển ngắn cũn chưa tới gối. Mỗi đứa dắt một tay bà, thỉnh thoảng hai đứa mỉm cười nhìn nhau đắm đuối. Thỉnh thoảng hai đứa nhắc nhau: “Cẩn thận kẻo ngoại bị lạc.”

 

– Trương thị Kim Chi

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.