Hôm nay,  

Trang Thơ tháng Hai

09/02/202315:41:00(Xem: 3123)
duythanh 3
Phóng bút của Duy Thanh.



LƯU DIỆU VÂN

 

thế kỷ của những vật tế

 

chúng ta cứ chảy ngả ngớn về phía trước như thế

nơi đàn ngỗng chẻ sóng xôn xao về vị tổng thống trò hề

cùng cô ca nhạc sĩ hoa hồng chơi ngông áo cộc không váy

kết hợp với tiếng tăm tráo trở được lộng kiếng

người đàn ông bên kia rào tìm cách thu thập tin tức

từ mặt nước mà không cần phải rót mật vào tai không khí

cô bé da trắng thả tay mẹ trượt vội xuống mũi giày

sờn đã cưu mang hơn 10,300 em bé da vàng mà tiếng

chào của anh vẫn chưa vọng đến cuối cuộc chiến

trong chiếc cầu mũ viền lông tơ hơi thở chúng ta tranh chức giáo đầu

ngoài kia những bức tường biên giới đang được xây

bằng lời bào mòn cờ hoa bị thóa mạ

vẫn trong trạng thái hành trang hơn hai thế kỷ nặng nề sự tử tế

anh gỡ chiếc vỏ bảo hộ những bạo lực ấu thơ

những vết bầm ẩn dụ kén khổ chủ trước và sau hàng cúc áo

liếm môi em như một lá thư sắp cháy cong

lịch sử chỉ là một tiếng rên phản kháng giữa đám

đông cả tin nay đã sờn trí nhớ

em dũng cảm nhất trong xiềng xích vòng tay anh chai xạm

chiến sĩ trong em muốn thay đổi những gì bất dịch

thiền sĩ trong em muốn chấp nhận những gì bất dung

xong giao dịch thịt da, em đưa tờ năm mươi đồng trả công

anh thối lại một buổi chiều nắng đầy sỏi huyết dụ

lồng bên trong những viên tuyết tầm nhiệt

trong cơn lốc nước ta nghe thoang thoảng

con người đã biết biến cái lạnh thành vũ khí đấu tranh

cho nhân quyền/ nhân cách/ nhân nghĩa

và nhân tình là vật tế hy sinh


-- Lưu Diệu Vân

*

TRẦN HẠ VI


Cho anh

Nếu kiếp trước em đã ăn lưng bát cơm anh bố thí
Thì kiếp này coi như cũng trả dứt nợ nần
Đừng nắm níu lần khân
Chúng ta hãy xem nhau
như những người chưa từng quen biết

Nhớ làm chi những đêm đông mải miết
Người tìm người,
thơ tìm thơ,
trong cơn nửa tỉnh nửa mê
Đêm em sâu quá hay ngày anh dài lê thê
Trộn vào nhau chút ẩn ức
miên mê
quẩn quanh nỗi buồn chôn giấu

Đã qua rồi chuỗi ngày xưa yêu dấu
Em hay chơi trốn tìm có lẽ chẳng vì yêu
Cơn nghiện anh cháy lòng
bao nhiêu lần
thành lũy em đổ liêu xiêu
Ồ hóa ra em nhớ anh nhiều đến vậy...

Nhưng rồi...
những gì không phải của mình đừng nên lấy
Em cũng chẳng tham chi một chút hư vinh
Cầu mong anh thắm đẹp duyên tình
Em trở lại
băng bó tim côi
xóa nhòa dĩ vãng

Mà thôi...
chắc em giận nhiều
nên nói sảng...
anh nghe!


Khúc hát tường vi

Tình yêu hát vang trên những xác người
la liệt xác tài khoản
những cái tên trong tưởng tượng
con chữ nằm chết ngổn ngang
những câu chuyện dở dang
sẽ không bao giờ kết thúc

Những gì em viết ra
như định mệnh
Kẻ chép sử túng thiếu già nua
sống dưới cây cầu bắc qua sông Seine
thế kỷ 16
quả cầu thủy tinh tiên tri
quyền năng hay gánh nặng

Em viết một trang vào đời anh
những con chữ rùng mình
níu kéo
lạnh ngắt đôi tay

sáng nay một giấc mơ đi hoang
chiếc email quên xóa dòng tên
lắc mình thành sự thật
em lắc mình biến mất


cho anh giữ chút niềm tin còn sót lại
ngăn kéo cuối cùng
giấu một đóa tường vi


Lảo đảo... em buông...


Em ngồi trong bóng tối nhập nhòa mùa đông
Cơn khát anh dâng đầy vòng tay em đắng đót
Nhớ gì đâu trái cấm tình xanh xao vàng vọt
Nhưng anh không,
chưa từng,
có lẽ....
sẽ không phải của em

Dan díu đời nhau chi chút ẩn ức lem nhem
Dẫu mình hiểu những điều chưa bao giờ được nói
Cô độc anh,
cô độc em
trong biển người đau nhói
Nhớ làm gì khi chẳng thể hạnh phúc chung

Em không phải kẻ có thể đấu tranh đi đến tận cùng
Em yếu đuối,
ừ đúng,
em vô cùng yếu đuối
Tuy không đau mỗi khi nhìn anh tiếc nuối
Tàn tích cuộc tình, em không dám cạnh tranh

Hư thực ư -
tất thảy quá mong manh
Em vụn vỡ thủy tinh không dám làm 'thỏ thí nghiệm"
Thôi xin nhận thiệt thua dẫu tim mình ngất lịm
Nhìn anh xa dần....
nắm níu chi một vòng tay!

Anh, em buông rồi!
lảo đảo em say....

-- Trần Hạ Vi

*

THY AN



Đầu năm

 

giữa cái lạnh và cái nóng bất thường

của thay đổi khí hậu kỳ cục

hàng cây già không nói

và bài thơ của tôi sinh ra từ lá cây

đầu năm dương lịch nhìn phần đời đã qua

mơ hồ trông chưa rõ cái gì sắp tới

… mong manh

 

một lời chúc một nụ cười

như khát vọng thật mềm của phần đời còn lại 

ẩn hiện qua sương mù buổi sáng

bệnh viện và những bức tường vàng

lò hỏa táng và những khuôn mặt buồn buồn

đóng khung những ký ức

… trôi tan

 

rồi buổi tối giao thừa sẫm màu

mở ra ngày đầu âm lịch

bên anh bên em một ly rượu nhỏ

im lặng vẽ những vòng tròn theo năm tháng

trên đầu ngón tay

… đàn hồi

 

từ trái tim hát lên những khúc chữ

khi ngắn khi dài như hơi thở

và giọt mưa rơi trên mái 

tiếng chân người đi lạc viễn phương

mơ mãi một ngày về như cọng rơm bên sông

… lặng lẽ

 

quỳ xuống bên vương miện chói sáng

hạt kim cương trên tóc trắng

mỉm cười cùng trăng sao bất tận

làm sao tìm ra bí ẩn cuộc sống

khát khao trái tim chờ đợi

những nhắn tin từ smartphone nhấp nháy

… vô thường

 

 

Độc thoại khi uống cà phê

 

gió không đủ độ lượng

làm mát những con đường đầy uẩn khúc

nơi tình yêu mong manh như sương

nỗi nhớ phiêu diêu trên nhánh cây tùng

tuổi thất thập buổi chiều nắng xế

 

căn nhà đầy ắp hương và hoa

cộng thêm bao phế thải của đời sống

ôi một thời vọng động

đi qua những khúc quanh ồn ào

mùa thu lá đỏ đầy tay

 

những điều tâm đắc nhất an ủi trái tim

như thì thầm của hoa và cỏ

dòng âm thanh bất tận của những sớm mai

rơi xuống vạt áo

sau những đêm thâu rối bời

 

ngồi nhìn cà phê và bóng mình

khuấy một khúc đời trong ly sóng sánh

còn điều gì trông ngóng

con đường dài độc đạo ái ngại

hơi thở dường như mệt lòng

 

đến nguyên lành và ra đi sẽ không tội lỗi?

cầm quyển sách và lật trang giấy vàng

mực đen ghi câu thơ lãng mạn

sáng tạo nào phù hoa bám riết thời gian

giấc mơ theo năm tháng phai tàn

 

cội nguồn linh hiển chợt sáng

trong đôi mắt thật hiền như cổ tích…

 

– thy an

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.