Hôm nay,  

Bao giờ cháu tôi lấy chồng?

23/02/202311:12:00(Xem: 3277)
Truyện

father-daughter 1

Ngày Tabby chào đời, baby tóc đã nhiều lại quăn quăn. Người ta thường nói người tóc kiểu này sẽ khổ, sẽ vất vả. Tôi lo lắm, bế cháu nội trong tay tôi nựng nịu:

 

– Bà chúc cháu lớn lên sẽ nhàn hạ sung sướng nhé. Bà sẽ luôn đi bên cạnh che chở đỡ đần cháu.

 

Tôi nhất định sẽ cải “số trời” thay đổi “nghiệp” cho cháu. Thực tế là tôi sẽ để dành tiền bạc thật nhiều để bù đắp cho đứa cháu “nhiều tóc nhiều khổ” này, dù nó chẳng phải là cháu trai đích tôn.

Bà thì lo cháu khổ vậy mà lớn lên Tabby cứ muốn… xông vào chỗ khổ. Hồi đang học Junior High, không biết cô giáo dạy môn gì, nói gì về những nước Châu Phi mà Tabby tuyên bố mai mốt sẽ sang Châu Phi giúp đỡ người nghèo, trẻ em nghèo. Nó bỗng trở nên tiết kiệm tối đa, đồ ăn thức uống không bao giờ bỏ phí, mẩu bánh mì thừa, chút sữa em nó bỏ dở trong ly Tabby cũng thanh toán cho tới hết vì bao trẻ em Châu Phi đang thiếu lương thực đang chết đói ngoài đường phố, mình lãng phí là có lỗi với họ. Tabby tiết kiệm dành dụm những đồng tiền ít ỏi của mình với ước mơ gởi tặng… toàn thể Châu Phi đói nghèo (vì nước Châu Phi nào Tabby cũng thương).

 

Thời buổi này tuổi trẻ thích gì làm nấy không ai ngăn cản được, sợ Tabby có ngày sang Châu Phi tôi hốt hoảng, ở xa phải làm nhiều cú phone tâm lý khuyên giải và năn nỉ cháu lo học hành có công việc kiếm ra tiền thì mới nói tới chuyện giúp đỡ ai, người nghèo không cần lời thương xót trống rỗng, cháu chẳng nói lời nào cũng được miễn là cháu cho họ tiền bạc, đồ ăn thức uống.

Sau “cú sốc” Châu Phi, Tabby lại cho tôi một cú “sốc” khác, khiêm nhường hơn, không mơ chuyện đại sự mãi tận Châu Phi nữa, Tabby nói ước nguyện nghề nghiệp tương lai muốn đứng bán cây xăng hay chạy bàn trong tiệm McDonald’s, vẫn là tấm lòng thơm thảo muốn gần gũi phục vụ và giúp đỡ người khác trong khi bà nội nó đã vẽ vời ra mấy nghề mà bà nội mơ ước như bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư thì nó chẳng đoái hoài. Cha mẹ Tabby trấn an tôi:

 

– Mẹ đừng buồn đừng lo, cháu nội Tabby của mẹ cứ ước mơ và thay đổi soành soạch ấy mà.

 

Khi học xong trung học, ra trường điểm cao nhưng Tabby chọn học nghề y tá 4 năm, cũng vẫn vì “lý tưởng” giúp đỡ tha nhân, Tabby sẽ chăm sóc những người bệnh, sẽ góp phần giúp đỡ chữa trị bệnh tình cho họ khỏe lại về nhà.

 

Tôi bắt bẻ:

 

– Vậy sao cháu không học bác sĩ cũng là chăm sóc chữa trị cho người bệnh?

 

– Bà ơi, bác sĩ nào cũng bận rộn xem bệnh xong là đi ngay, làm y tá cháu sẽ có cơ hội gần gũi bệnh nhân nhiều hơn, cháu sẽ nói chuyện an ủi họ. Bệnh nhân cần chữa vết đau thân thể và cả tinh thần.

 

Tôi chẳng hài lòng tí nào, nghề y tá cực khổ, một y tá mỗi ca trông mười mấy giường bệnh, chạy như con thoi, rạc rài cả chân từ phòng bệnh này đến phòng bệnh khác, mỗi ca làm 12 tiếng bất kể ngày đêm, bất kể lễ to lễ nhỏ. Cha mẹ Tabby lại trấn an tôi:

 

– Mẹ đừng lo cháu Tabby làm y tá cực khổ, người ta yêu thích công việc gì thì sẽ hạnh phúc với công việc ấy.

 

Tôi không dám phản đối và mơ cháu học bác sĩ nữa vì có lần Tabby đã cự nự và đe dọa:

 

– Bà đừng chỉ huy cháu. Cháu sẽ đi Phi Châu luôn đó, không liên lạc với bà nữa đâu.

 

Tôi cố vớt vát:

 

– Nếu cháu không làm bác sĩ thì… lấy chồng bác sĩ nhé. Mai mốt cháu làm y tá trong bệnh viện biết đâu sẽ gặp?

 

Đi học thỉnh thoảng được tới bệnh viện thực tập, Tabby liền thông báo với tôi:

 

– Bà ơi, trong bệnh viện cháu đang theo học bác sĩ nào cũng có gia đình rồi, chưa có cơ hội cho bà tìm cháu rể bác sĩ đâu.

 

– Sao cháu biết?

 

– Cháu gặp bác sĩ nào cũng nhìn vào ngón tay đeo nhẫn của họ mà, bà đừng muốn cháu lấy chồng bác sĩ nữa nhá.

 

Tôi thử hỏi cháu:

 

– Nếu ngón tay anh ấy chưa đeo nhẫn thì cháu làm sao?

 

Tabby nhanh nhẩu:

 

– Cháu sẽ làm quen trước và nói với anh rằng, “Bà nội em dặn em phải quen và lấy chồng bác sĩ. Anh muốn quen em không?”

 

– Trời ơi! Thế  thì còn gì giá trị con gái nữa chứ và làm bà mất mặt quá.

 

– Cháu nói giỡn bà nội thôi, cháu đâu có ngu đến thế.

 

Tôi thở phào nhẹ nhõm:

 

– Ừ, lấy ai là duyên số mà, nhưng cháu sẽ lấy chồng là người Việt Nam nhé.

 

Thấy gia cảnh nhiều người Việt lấy chồng “Tây” sớm yêu, sớm cưới cũng sớm li dị bỏ nhau, sợ cháu khổ nên tôi dặn dò thế. Tabby than thở:

 

– Nhưng cháu không biết nấu phở.

 

– Là sao hả?

 

– Vì chồng Việt Nam sẽ muốn cháu nấu phở. Như bà nấu phở cho ông, như mẹ cháu nấu phở cho ba cháu. Cháu thấy mẹ bỏ đủ thứ gia vị vào nồi phở như phù thủy bỏ bùa mê vào nồi luyện phù phép ấy. Làm sao cháu nhớ hết đó là những thứ gì?

 

Tôi thấy Tabby có phần đúng, chính tôi có khi nấu phở vẫn ba chớp ba nháng quên một vài gia vị nào đó nói gi cháu sinh ra lớn lên ở Mỹ, nó biết gì đến đinh hương, cánh hồi, quế, thảo quả, hạt mùi…?

 

Tôi năn nỉ cháu:

 

– Cứ lấy chồng Việt Nam cháu nhé,  dù cháu không biết nấu phở hay bất cứ món ăn Việt Nam nào thì cứ việc mở YouTube ra xem. Bà đã từng làm thế. Ngày mai đãi khách, tối nay bà “nghiên cứu” vài ba YouTube là biết nấu nướng ngay.

 

Tabby lại đe dọa:

 

– Bà từng chỉ huy cháu phải học ngành này ngành kia bây giờ lại chỉ huy cháu phải lấy chồng Việt Nam. Mai mốt cháu sang Châu Phi lấy chồng và ở bên ấy luôn đó.

 

Tabby biết tôi sợ nó đi Châu Phi nên cứ mang cái đất nước nghèo khổ ấy ra để dọa tôi. Thấy bà nội cụt hứng kém vui  Tabby vội nói thêm:

 

– Cháu… thí dụ thế thôi, nếu gặp anh Việt Nam dễ thương cháu sẽ chọn anh ấy.

 

Còn một năm nữa Tabby sẽ ra trường làm y tá. Tuy bận học nhưng thỉnh thoảng Tabby vẫn gởi vài hình ảnh Tabby với bạn bè cùng khóa. Hôm qua nhìn hình những y tá tương lai, những đứa con gái tuổi đôi mươi mới lớn tươi khỏe trẻ đẹp sắp bước vào đời tôi lại… mộng mơ giùm cho chúng nó và cho riêng cháu tôi. Mong cháu Tabby sẽ gặp được chàng trai Việt hiền lành tử tế yêu thương cháu và gia đình nó sẽ hạnh phúc suốt đời. Đẹp như chuyện cổ tích.

 

Bà nội đang mơ mộng thế thì buổi tối lại nhận email của Tabby, nó kể chiều nay khi cháu học lớp xong đang đi bộ từ thư viện qua những bụi hoa xinh đẹp ra chỗ đậu xe để về nhà thì bị một con ong chích vào chân cháu đau quá, chỗ ong chích sưng đỏ lên nè (cháu gởi kèm theo hình bà mở ra xem). Tabby ký tên và tái bút âu yếm nhắc nhở, “Bà cẩn thận nhé, cháu thấy bà nội hay xí xọn mặc áo dài xanh đỏ đứng gần những bụi hoa chụp hình để khoe bạn bè và khoe với cháu. Hoa mùa hạ lắm ong vo ve xung quanh chúng sẽ chích bà đấy, bà sẽ khóc như cháu thôi”. Tabby tưởng như bà nội cũng bé bỏng ngây thơ như nó. Đọc mail dễ thương của cháu tôi vừa thương vừa buồn cười. Tôi kéo mail xuống để xem hình, một hình vết ong chích nơi bắp chân Tabby sưng đỏ, hình kia Tabby đang nhăn mặt khóc vì đau.

 

Con bé Tabby vẫn còn nhiều tính nết và ý tưởng ngây thơ như thế đấy vẫn thường chảnh chọe cãi nhau với hai đứa em. Chẳng biết bao giờ Tabby mới thực sự là một thiếu nữ biết mộng mơ, bao giờ cháu tôi mới lấy chồng và sống đời êm ấm cho tôi yên lòng, hỡi cô bé tóc quăn tóc nhiều của tôi ơi!

 

Nguyễn Thị Thanh Dương

(Jan. 15, 2023)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.